![]() |
Văn bia do cụ đồ Phối, viết trên gỗ, tại nhà thờ chi họ thuộc Phụ Dực, Thái Bình |
Bản dịch của viện Hán nôm
GIA PHẢ HỌ NGUYỄN
Ngày 24 tháng 11 năm Bảo Đại
14 (1939) họ Nguyễn Đức ở xã An Ninh, tổng Lương Xá, huyện Phụ Dực, tỉnh Thái
Bình biên chép lại các ngày giỗ, tên húy, và chức tước của các bậc gia tiên
trong phả hệ như sau:
Thường nghe: Mọi vạn vật ở đời
đều phải có cội nguồn gốc gác. Con người cũng vậy, con người ta khi sinh ra ở đời
đều phải xuất phát khởi nguồn từ tổ tiên. Tổ tiên ta luôn tích đức đắp bồi điều nhân để gây dựng cho thế hệ sau càng thêm lớn mạnh. Công đức ấy thực
là lớn lao mênh mông đến vô cùng. Nhìn lại thấy, nghìn cành vạn lá cây còn phải
có gốc, một dòng nước còn phải vạn mạch nước mà thành, huống hồ là con người.
Các thế hệ con con cháu cháu kế tục nối tiếp nhau đến muôn đời không rứt phồn
thịnh, ấy há chẳng phải là nhờ đức của tiên tổ ta đó sao. Vậy nên các thế hệ
con cháu đâu có thể dám quên mà phải luôn đem lòng báo đức uống nước nhớ nguồn
và truyền lại mãi cho con cháu đời sau.
Tiên tổ nhà ta là họ Nguyễn Hữu,
nguyên quán tại xã Lãng Lăng, huyện Giao Thủy, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Xưa kia, các vị tiền liệt từng một đời làm Thượng thư, một đời làm Quận công ở
thời Lê trung hưng và thời Mạc nên nhập cư vào nội địa (đất trong). Sau phân
làm hai chi, một chi ở xã Phương Tảo, một chi ở xã Phương Cáp rồi con cháu hậu
duệ kế tục nối tiếp nhau cho đến ngày nay. Nay ta lại rời cư về quê mẹ (tức xã
An Ninh, huyện Phụ Dực) và lấy tên là Nguyễn Hữu noi theo chí hướng của tiền
nhân. Vậy nên xin sao chép lược thuật lại các tên húy, ngày giỗ của các vị cao
tằng tổ khảo của 4 đời trước đã được ghi rất rõ ràng trong gia phả lưu tại Từ
đường để lại mãi mãi cho các thế hệ con cháu đời sau.
Dưới đây là các tên húy, ngày
giỗ của các vị:
- Cao cao tổ khảo, Nguyễn quý công, tự Hữu Linh phủ quân (giỗ ngày 25 tháng 2).
+ Cao cao tổ tỷ, hiệu Từ Lộc (giỗ ngày 14 tháng 7).
- Cao tằng tổ khảo, Nguyễn quý công, tự Hữu Tùng phủ quân (giỗ ngày 27 tháng giêng). Nguyên giữ
chức Đô lại ở tỉnh Nam
Định.
+
Cao tằng tổ tỷ, Phạm Thị Năm, hiệu Từ
Thuận nhụ nhân, là chính thất (vợ cả) của họ Nguyễn (tức Nguyễn quý công, tự
Hữu Tùng).
+
Cao tằng tổ tỷ, Nguyễn Thị Liễu, hiệu Diệu
Chính nhụ nhân (giỗ ngày mùng 7 tháng 12),
là trắc thất (bà thứ) của họ Nguyễn (tức Nguyễn quý công, tự Hữu Tùng).
-
Tằng tổ khảo, Nguyễn quý công, tự Hữu Lượng,
hiệu Cẩn Hậu phủ quân (giỗ ngày 15 tháng
9). Tằng tổ khảo nguyên giữ chức Thông lại ở huyện nhà.
+
Tằng tổ tỷ, Bùi Thị Giá, hiệu Diệu Chân
nhụ nhân (giỗ ngày mùng 6 tháng 5),
là chính thất (bà cả) của họ Nguyễn (tức Nguyễn quý công, tự Hữu Lượng).
+
Tằng tổ tỷ, Đào Thị Nhã, hiệu Diệu Nho
nhụ nhân (giỗ ngày 27 tháng 6),
là trắc thất (bà hai) của họ Nguyễn (tức Nguyễn quý công, tự Hữu Lượng).
+
Tằng tổ tỷ, Trần Thị Yêu, hiệu Diệu
Nghiêm nhụ nhân (giỗ ngày 11 tháng 2),
là kế thất (bà ba) của họ Nguyễn (tức Nguyễn quý công, tự Hữu Lượng).
- Tổ cô, Nguyễn Thị Bằng, hiệu Thanh Ninh (giỗ
ngày 12 tháng 5).
- Đường bá, Nguyễn Hữu Từ; đường bá, Nguyễn Hữu Giang;
Nguyễn Hữu Đỏ([1]); Nguyễn Thị Đỏ.
-
Hiển khảo, Nguyễn quý công, tự Pháp Thuận,
húy Phối phủ quân. Hiển khảo nguyên là Khóa sinh, giữ chức Xã nhiêu, kiêm Hội
Tư văn của xã nhà. Hiển khảo, mất vào giờ
Hợi (ngày 22 tháng 4) năm Giáp
Thân, hưởng thọ 62 tuổi.
+
Hiển tỷ, Phạm Thị Tỳ, hiệu Cần Kiệm (giỗ ngày 25 tháng 8), là chính thất
(bà cả) của họ Nguyễn (tức Nguyễn quý công, tự Pháp Thuận).
+
Hiển tỷ, Lương Thị Kiệm, hiệu Cần Hậu (giỗ ngày 24 tháng 5), là kế thất (bà
kế) của họ Nguyễn (tức Nguyễn quý công, tự Pháp Thuận).
-
Hiển khảo, húy Nguyễn Đức Hạp, tự Thảo
Hiền (giỗ ngày 21 tháng 11), hưởng
thọ 57 tuổi.
+
Hiển tỷ, Phạm Thị Miên, hiệu Diệu Liên
nhụ nhân, là chính thất của hiển khảo Nguyễn Đức Hạp, tự Thảo Hiền. Hiển tỷ
sinh năm Giáp Dần, mất ngày 24 tháng 6
năm Giáp Ngọ, hưởng thọ 57 tuổi.
- Nguyễn Đức Tiếp (giỗ ngày 27 tháng 5); Nguyễn Khiết (giỗ ngày mùng 2 tháng 3); Nguyễn Thị Châu (giỗ ngày 17 tháng 9).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét