Bản dịch
Văn
bia
họ
Nguyễn Hữu
xã Phương Cáp
tổng Cự Lâm
huyện Thư Trì
Hà
Nội 2013
MẶT SỐ 1:
NGUYỄN
TỘC TỪ BI KÝ
PHIÊN ÂM:
Thư Trì huyện, Cự Lâm tổng,
Phương Cáp xã Nguyễn Hữu tộc đồng tộc vi lập bi ký.
Cái văn: Mộc chi thiên kha vạn
diệp thủy ư căn, thủy chi vạn mạch thiên lưu bản ư nguyên, nhân bản hồ tổ diệc
do thị dã. Cố vi chi phổ lặc vu thạch sử hậu thế tử tôn tri sở nguyên ủy tường
kỳ căn điền tổ công tông đức bách thế bất thiên, tử hiếu tôn hiền vạn đại như
kiến khải bất vĩ tai! Ngã tộc Từ đường ư Quý Mão niên sở bị cụ phong đảo hoại
kinh thập ngũ niên phất tạo kỵ lạp các tiết nhất giai quyền thiết tư gia vi tử
tôn giả quá kỳ cựu chỉ năng bất động tâm nhưng ư khứ niên thu hội đồng khởi tạo
chí kim niên trọng xuân công thuân hợp cộng các khoản chi tiêu phí chí ngũ bách
hoa ngân, nội bản tộc công tiền nhị bách tứ thập nguyên, tồn khiếm nhị bách lục
thập nguyên gian liệt hạng quân bổ tịnh bản xã đệ nhất giáp dữ tử tôn nội ngoại
tiến cúng sung đắc giá khiếm thả đương tu tạo chi thời nhu phí phả đa công
trình hạo đại phú giả, xuất tài bần giả, xuất lực kỳ ứng, dịch tu lý thậm chúc
nan lao xuất lực xuất tài giả bất tri cơ bồi gian nhi tộc nhân thượng hữu bất
thụ bổ liễm ứng dịch như thử tuệ đoan ngôn chi bất tận thảng hữu công hữu quá
giả bất hữu chí chi vô dĩ ngôn khuyến lai.
Tư tái nguyện Từ đường vĩnh viễn
dữ thạch trường tồn, hậu nhật tử tôn hoặc hữu hà nhân bất niệm tổ công tông đức
lỗ tự xâm phạm điền thổ tế khí, thượng đắc tội ư thiên địa, hạ đắc tội ư tổ
tiên. Kỳ hà nhân sung liễm can tịnh tiến cúng can dữ phế khiếm can quân liệt vu
tả dĩ thọ kỳ truyền. Tư lập bi ký.
Kế:
- Bản xã đệ nhất giáp tiến cúng thanh tiền tứ
thập quán.
- Nội ngoại tử tôn tiến cúng hoa ngân nhất
bách ngũ thập nguyên.
+ Từ đường nhất tòa tam gian.
+ Thổ thập nhị xích (Đông cận Nguyễn Cừ thổ;
Tây cận Nguyễn Long thổ).
+ Thổ tại Quan Nam xứ bát xích (Đông cận Đỗ Chung
thổ; Tây cận Phan Nhụ thổ).
+ Trì nhất khẩu (Đông cận Nguyễn Long thổ;
Tây cận tiểu lộ).
+ Tư điền tại Quan Nam xứ thập tứ xích (Đông cận Nguyễn
Khu điền; Tây cận Phan Thậm thổ).
+ Tư điền tại Càn Trúc xứ nhị cao ngũ xích
(Đông cận tiểu lộ; Tây cận Nguyễn Cừ điền).
- Phạm Đệ ký kỵ cửu nguyệt sơ tứ nhật tịnh
Nguyên đán.
- Đỗ Trọng Phố ký kỵ cửu nguyệt sơ tứ nhật.
- Nguyễn Sinh ký kỵ thập nguyệt tam thập nhật.
Tộc nội nghị định các kỵ nhật thuận hứa nội
ngoại ký kỵ thu tiền trí vi xuân thu nhị tế.
- Nguyễn Ngoạn ký kỵ nhị nguyệt nhị thập ngũ
nhật.
Tộc nội nhân Nguyễn Phối, Nguyễn Luận phụ tử
vô hữu bổ tiền công tiền nhất giai tịnh khiếm tả thành tứ bản liên ký giao các
chi chấp chiếu vi bằng.
Khải Định tam niên Mậu Ngọ nhị nguyệt cát nhật
lập bi ký.
MẶT SỐ 2:
BẢN TỘC GIA PHỔ TỰ KÝ
Kế:
- Cao tổ Nguyễn quý công, tự Phúc Ninh (tứ
nguyệt thập ngũ nhật kỵ). Nguyên tiền tại Lãng Lăng xã, hậu hồi Hương Tảo xã. Mộ
táng tại bản tổng Cự Lâm xã địa phận Hỏa tinh căn tọa Bính hướng Tý.
+ Cao tổ tỷ Trần nhất nương, hiệu Từ Nội (ngũ
nguyệt sơ ngũ nhật kỵ), sinh đắc nhất nam. Phần mộ trưởng chi sở thủ.
- Tằng tổ Nguyễn quý công, tự Phúc Hoan (thập
nhị nguyệt nhị thập nhật kỵ). Nguyên công sinh vu Hương Tảo thê thiếp sinh đắc
tứ nam, trưởng tử nguyên cư Hương Tảo, nhất chi di cư Thanh Bản, tam chi tứ chi
di cư Phương Cáp xã. Cô di cư hậu tốt táng tại bản xã Cầu giáp địa phận Tam Bảo
xứ, huyệt tại Thổ tâm tọa Tốn hướng Càn.
+ Tằng tổ tỷ Trần nhị nương, hiệu Từ Lộc (bát
nguyệt nhị thập ngũ nhật kỵ). Mộ táng tại bản tổng Phan Cầu trang Đống Liệt xứ,
huyệt tại kim quy tọa Đinh hướng Quý. Sinh đắc tứ nam.
- Hiển tổ Nguyễn quý công, tự Hữu Tài, hiệu
Phúc Hòa (thập nguyệt sơ tứ nhật kỵ). Mộ táng tại bản xã Càn Giá xứ Thủy tinh tọa
Cấn hướng Khôn. Nguyên công sinh vu Hương Tảo cập trưởng vi cô bần nãi ký cư Phương
Cáp xã nhân Bùi Công Hiếu cần mẫn sinh nghiệp. Bùi công kiến vi nhân thuần hòa
nhận vi dĩ tử, cố thử nhập tịch cư yên. Công dữ tổ tỷ cần kiệm sinh nghiệp nãi
năng trí phú đãn tử tức thoát thành tái thú thiếp sinh nhị nam nhất nữ.
+ Hiển tổ tỷ Đào nhất nương, hiệu Từ Tâm, Hữu
Lộc xã nhân (nhị nguyệt nhị thập ngũ nhật kỵ). Mộ táng bản xã Gia giáp địa phận
Cây Chanh xứ, huyệt tại Kim tinh tọa Bính hướng Nhâm. Nguyên sơ bản xã tu tác
tân đình Gia giáp vô hữu công tiền, bà ứng xuất dữ y giáp cổ tiền nhất bách
quán hòa điền ngũ cao thập xích, trì nhất khẩu. Đồng giáp thuận bảo bà vi Hậu
thần, phàm kỵ lạp các tiết tế tự thế thế hương hỏa phụng sự như sinh, hậu chi tử
tôn tưởng bà chi đức tại ư dưỡng thành bà chi công tại ư tế cấp chí vu kim quyến
gia kỳ huệ. Phần mộ kỵ lạp yếu thường cẩn thủ. Nhược [] lược tội thông vu thiên
giới chi thận chi.
+ Hiển tổ tỷ Nguyễn nhị nương, hiệu Từ Tín (tứ
nguyệt thập tứ nhật kỵ). Mộ táng tại Gia giáp địa phận Cây Chanh xứ, huyệt tại
Thổ tâm . Sinh nhị nam nhất nữ. Nguyên quán tại Thần Khê huyện, Quán Xá xã nhân
tòng thân phụ khai canh bản xã điền, thủy giá dữ hiển tổ vi thiếp.
- Hiển khảo Nguyễn quý công, tự Hữu Tiến.
Bình sinh vi Hương trưởng học Đạo pháp môn vi thế danh sư, nhân nhi thụy viết tự
Huệ Danh (thập nguyệt tam thập nhật kỵ). Mộ táng tại Gia giáp địa phận Cây
Chanh xứ, tọa Tân hướng Ất, huyệt tại Kim nhũ.
+ Hiển tổ tỷ Đỗ Thị Đát, bản xã nhân công
Chính Lộ chi hàng nhị nữ, thụy viết Diệu Uyên (cửu nguyệt sơ tứ nhật kỵ). Mộ
táng tại Cây Chanh xứ, Kim nhũ, tọa Ất hướng Tân. Sinh tứ nam tứ nữ nhất nghĩa
nữ.
Nguyễn tộc cẩn chí.
DỊCH NGHĨA:
MẶT SỐ 1:
VĂN
BIA NHÀ THỜ HỌ NGUYỄN
Họ Nguyễn Hữu cùng toàn thể mọi người trong họ
ở xã Phương Cáp, tổng Cự Lâm, huyện Thư Trì lập văn bia.
Thường nghe: Nghìn cành vạn lá của cây đều phải
bắt đầu từ gốc, vạn mạch nghìn dòng của nước cũng đều phải bắt đầu từ nguồn,
còn con người thì vốn bắt đầu từ tổ tiên mà ra. Bởi vậy cho nên mới có việc lập
phả và khắc vào bia đá truyền lại cho con cháu hậu thế thấy mà biết được nguồn
gốc, đất đai của dòng họ để từ đó hiểu rõ công đức của tổ tông trăm đời chẳng đổi
rời, con hiếu cháu hiền muôn thuở như còn thấy ngay ở trước mặt, đó há chẳng phải
là vĩ đại lắm thay!
Từ đường họ nhà ta vào năm Quý Mão do bị trận
gió bão quật đổ, trải qua 15 năm mà vẫn chưa tạo dựng lại được nên các tiết giỗ
chạp đều sắp bày tại tư gia con cháu. Trước hoàn cảnh ấy, mọi người ai ấy đều động
lòng bèn cùng nhau hội họp và thống nhất dựng lại trên nền đất cũ. Công việc được
tiến hành khởi công từ mùa thu năm ngoái cho đến mùa xuân năm nay thì hoàn
thành. Việc xong, tính tổng cộng chi tiêu các khoản cho công việc trên hết 500 đồng,
trong đó tiền của trong họ là 240 đồng, còn thiếu 260 đồng. Số tiền thiếu này sẽ
tính bổ đều cho giáp Đệ Nhất và các con cháu hai bên nội ngoại tiến cúng để bù
cho đủ phần còn thiếu ấy. Thiết nghĩ, khi đương tu tạo chi chí tốn kém nhiều,
công trình lại lớn thành ra hao tốn tiền của, mất nhiều nhân lực. Trong khi đó,
ở trong họ lại có người không chịu đóng góp thành thử sảy ra chuyện thiếu tiền
là lẽ đương nhiên. Vậy nên, lời nói khó bề mà diễn tả hết được, chỉ biết người
có công thì tất hưởng phúc dài, người vô tâm thì cho dù có thế nào đi chăng nữa
vẫn chẳng thể hưởng phúc ấm. Nay xin nguyện cho ngôi Từ đường mãi mãi cùng với
đá xanh trường tồn. Các con cháu sau này nếu có người nào không nhớ tới công của
tổ, đức của tông mà đem lòng chiếm cứ hoặc tự ý xâm phạm đến đất đai ruộng vườn
và đồ tế khí thì trên đắc tội với trời đất, dưới đắc tội với tổ tiên. Còn người
nào quyên góp bao nhiêu, tiến cúng bao nhiêu hoặc bỏ thiếu không chịu đóng góp
thì xin liệt kê dưới đây để truyền lại mãi mãi. Nay lập bia ghi.
Kê:
- Giáp Đệ Nhất ở trong xã tiến cúng 40 quan tiền xanh.
- Các con cháu hai bên nội ngoại tiến cúng 150 đồng.
+ Một tòa Từ đường gồm 3 gian.
+ Đất 12 thước (phía Đông cận với đất của Nguyễn Cừ; phía Tây cận với đất
của Nguyễn Long).
+ Đất tại xứ Quan Nam
gồm 8 thước (phía Đông cận với đất của Đỗ Chung; phía Tây cận với đất của Phan
Nhụ).
+ Ao 1 cái (phía Đông cận với đất của Nguyễn Long; phía Tây cận với con
đường nhỏ).
+ Ruộng tư tại xứ Quan Nam
gồm 14 thước (phía Đông cận ruộng của Nguyễn Khu; phía Tây cận với đất của Phan
Thậm).
+ Ruộng tư tại xứ Càn Trúc gồm 2 sào 5 thước (phía Đông cận với con đường
nhỏ; phía Tây cận với ruộng của Nguyễn Cừ).
- Phạm Đệ giỗ ngày mồng 4 tháng 9
và tết Nguyên đán.
- Đỗ Trọng Phố giỗ ngày mồng 4
tháng 9.
- Nguyễn Sinh giỗ ngày 30 tháng 10.
Nghị định của nội tộc hễ đến các ngày giỗ của hai bên nội ngoại hoặc dịp
tế lễ hai mùa xuân thu thì thống nhất thu tiền để chi dùng.
- Nguyễn Ngoạn giỗ ngày 25 tháng
2.
Người nội tộc là Nguyễn Phối và Nguyễn Luận,
cả hai cha con cùng để thếu không đóng tiền công và tiền đinh xuất. Vậy nên lập
biên bản làm 4 bản liền nhau cùng ký kết rồi giao cho các chi chấp chiếu để làm
bằng.
Ngày lành tháng 2 năm Mậu Ngọ niên hiệu Khải
Định 3 (1917) lập văn bia.
MẶT SỐ 2:
GIA PHẢ GHI THỨ TỰ CỦA BẢN TỘC
Kê:
-
Cao tổ Nguyễn quý công, tự Phúc Ninh (giỗ
ngày 15 tháng 4). Nguyên trước kia ở xã Lãng Lăng sau rời về xã Hương Tảo.
Mộ táng tại địa phận xã Cự Lâm thuộc tổng nhà. Mộ tọa Hỏa tinh, lưng quay về hướng
Nam ,
mặt nhìn về hướng Bắc.
+ Cao
tổ tỷ Trần nhất nương([1]),
hiệu Từ Nội (giỗ ngày mồng 5 tháng 5),
sinh được 1 người con trai. Phần mộ trưởng chi trông giữ.
-
Tằng tổ Nguyễn quý công, tự Phúc Hoan (giỗ
ngày 20 tháng 12). Nguyên xưa kia cụ sinh ở Hương Tảo, lấy vợ rồi sinh hạ
được 4 người con trai. Con trưởng ở lại Hương Tảo, chi thứ hai di cư đến Thanh Bản,
chi thứ ba và chi thứ tư thì di cư đến xã Phương Cáp. Bà cô cũng di cư, sau mất
thì táng tại xứ Tam Bảo thuộc địa phận giáp Cầu ở bản xã. Huyệt mộ tọa Thổ tâm,
lưng quay về hướng Đông Nam ,
mặt nhìn về hướng Tây Bắc.
+
Tằng tổ tỷ Trần nhị nương([2]),
hiệu Từ Lộc (giỗ ngày 25 tháng 8). Mộ
táng tại xứ Đống Liệt, trang Phan Cầu thuộc bản tổng. Sinh hạ được 4 người con
trai.
-
Hiển tổ Nguyễn quý công, tự Hữu Tài, hiệu Phúc Hòa (giỗ ngày mồng 4 tháng 10). Mộ táng tại xứ Càn Giá thuộc bản xã, mộ
tọa Thủy tinh, lưng quay về hướng Đông Bắc, mặt nhìn về hướng Tây Nam .
Nguyên xưa kia, cụ sinh ra ở Hương Tảo, khi trưởng thành mồ côi nghèo khó nên
đành phải đến ở cho Bùi Công Hiếu ở xã Phương Cáp để sinh nghiệp. Bùi công thấy
ông là người hiều hậu hiếu thuận bèn nhận làm con, do đó mà ông nhập tịch ở đấy.
Ông và tổ tỷ là người cần kiệm làm ăn và dần trở thành giàu có nhưng lại không
có con, nên sau ông lại lấy bà thiếp rồi sinh hạ được 2 người con trai và 1 người
con gái.
+
Hiển tổ tỷ Đào nhất nương, hiệu Từ Tâm là người ở xã Hữu Lộc (giỗ ngày 25 tháng 2). Mộ táng tại xứ Cây
Chanh thuộc địa phận giáp Gia của bản xã, huyệt mộ tọa Kim tinh, lưng quay về
hướng Nam ghé Đông Nam, mặt nhìn về hướng Bắc ghé Tây Bắc. Nguyên xưa, bản xã
tu sửa cho mới lại ngôi đình giáp Gia và thiếu tiền, bà đã ứng ra cho giáp ấy
100 quan tiền cổ và 5 sào 10 thước ruộng cộng thêm 1 cái ao. Bởi vậy, toàn dân
trong giáp thuận tình bầu bà làm Hậu thần. Phàm vào các tiết giỗ chạp thì dân
thờ tự hương hỏa phụng sự bà như lúc còn sống. Các con cháu sau này tưởng nhớ đến
công đức dưỡng thành của bà bèn cùng nhau thờ tự khói hương, và cho đến nay gia
quyến vẫn rất nhân ái. Phần mộ và giỗ chạp của bà hiện vẫn được cẩn thận trông
coi. Nếu người nào coi thường mà hành sự đại khái sơ lược thì quả là rất có tội
với trời.
+
Hiển tổ tỷ Nguyễn nhị nương, hiệu Từ Tín (giỗ
ngày 14 tháng 4). Mộ táng tại xứ Cây Chanh thuộc địa phận giáp Gia, huyệt mộ
tọa Thổ tâm. Bà nguyên quán ở xã Quán Xá, huyện Thần Khê theo thân phụ đến bản
xã khai canh rồi lấy hiển tổ làm thiếp.
-
Hiển khảo Nguyễn quý công, tự Hữu Tính([3])
là Nho sinh làm Hương trưởng, sau theo học Đạo pháp rồi trở thành bậc thầy nổi
tiếng nên nhân đó mà lấy tên thụy là Huệ Danh. Hiển khảo (giỗ ngày 30 tháng 10), mộ táng tại xứ Cây Chanh thuộc địa phận giáp
Gia. Huyệt mộ tọa Kim, lưng quay về hướng Tây ghé Tây Bắc, mặt nhìn về hướng
Đông ghé Đông Nam .
+ Hiển tổ tỷ Đỗ Thị Đát, thụy Diệu Uyên là
con gái thứ hai của ông Chính Minh ở trong xã. Hiển tổ tỷ (giỗ ngày mồng 4 tháng 9), mộ táng tại xứ Cây Chanh. Huyệt mộ tọa
Kim, lưng quay về hướng Đông ghé Đông Nam, mặt nhìn về hướng Tây ghé Tây Bắc.
Sinh
hạ được 4 người con trai, 4 người con gái và nuôi 1 người con nuôi.
Họ Nguyễn kính cẩn ghi chép.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét