LƯỢC SỬ DÒNG HỌ
LỜI NÓI ĐẦU
Theo dòng thời gian, dòng họ Nguyễn Hữu đã trường tồn và
phát triển không ngừng từ ngày tổ nghiệp Nguyễn
Phúc Ninh đến đất Hương tảo[1],
Thư trì[2],
Thái Bình để dựng nghiệp. Đến nay, hậu duệ đòng họ Nguyễn Hữu đã toả đi khắp
nơi không
những trên tổ quốc Việt Nam mà còn có mặt và lập nghiệp tại nước ngoài. Cho dù ở
đâu, hậu duệ của dòng họ Nguyễn Hữu luôn một lòng hướng về cội nguồn, đoàn
kết, đùm bọc, yêu thương nhau và noi theo truyền thống tốt đẹp mà tiền nhân đã
dày công xây dựng và bồi đắp.
Do những biến cố lịch sử nên những thư tịch của dòng họ còn
giữ lại rất hiếm; nhưng sự trường tồn của ngôi nhà thờ họ, tấm bia đá được dựng
vào năm 1917 và bút tích của cụ đồ Nguyễn Hữu Phối viết trên gỗ là những chứng
tích lịch sử cho thấy tổ tên của chúng ta là những người rất chú trọng đến công
việc xây dựng truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” của dòng họ. Chẳng thế mà những
áng văn mở đầu của văn bia đặt tại nhà thờ họ đã viết:
“Thường nghe:
Nghìn cành vạn lá của cây đều phải bắt đầu từ gốc, vạn mạch nghìn dòng của nước
cũng đều phải bắt đầu từ nguồn, còn con người thì vốn bắt đầu từ tổ tiên mà ra.
Bởi vậy cho nên mới có việc lập phả và khắc vào bia đá truyền lại cho con cháu
hậu thế thấy mà biết được nguồn gốc, đất đai của dòng họ để từ đó hiểu rõ công
đức của tổ tông trăm đời chẳng đổi rời, con hiếu cháu hiền muôn thuở như còn thấy
ngay ở trước mặt, đó há chẳng phải là vĩ đại lắm thay!”[3]
Hay
như áng văn mở đầu của bản “Lược ghi dòng họ Nguyễn Hữu” của cụ đồ Nguyễn Hữu Phối
cũng đã viết như sau:
“Thường nghe:
Mọi vạn vật ở đời đều phải có cội nguồn gốc gác. Con người cũng vậy, con người
ta khi sinh ra ở đời đều phải xuất phát khởi nguồn từ tổ tiên. Tổ tiên ta luôn
tích đức đắp bồi điều nhân để gây dựng cho thế hệ sau càng
thêm lớn mạnh. Công đức ấy thực là lớn lao mênh mông đến vô cùng. Nhìn lại thấy,
nghìn cành vạn lá cây còn phải có gốc, một dòng nước còn phải vạn mạch nước mà
thành, huống hồ là con người. Các thế hệ con con cháu cháu kế tục nối tiếp nhau
đến muôn đời không rứt phồn thịnh, ấy há chẳng phải là nhờ đức của tiên tổ ta
đó sao. Vậy nên các thế hệ con cháu đâu có thể dám quên mà phải luôn đem lòng
báo đức uống nước nhớ nguồn và truyền lại mãi cho con cháu đời sau.”[4]
Nối
gót tổ tiên, vào những năm 2000, nhóm hậu duệ tại Phụ dực – Thái bình, đứng đầu
là ông Nguyễn Hữu Vân đã dày công thu thập và ghi chép lại gia phả của dòng họ.
Kể từ đó dòng họ Nguyễn Hữu đã có thêm một tư liệu quý giá[5], đặc biệt là việc xây dựng
cây phả hệ. Kế tục sự nghiệp của các thế hệ trước, một nhóm hậu duệ tại Phương
cáp - Hiệp hoà - Vũ thư - Thái bình cũng đã bắt đầu tiến hành những khảo cứu để
bổ sung vào những tư liệu của dòng họ. Do bị hạn chế về thời gian nên công việc
vẫn chưa được tiến hành một cách hệ thống và kết quả thu được vẫn chưa được nhiều.
Mặc dù vậy, chúng tôi mạo muội tạo dựng tài liệu này nhằm làm sáng tỏ thêm những
thông tin về dòng họ cũng như đưa ra một số vấn đề để toàn bộ họ tộc cùng nhau
góp sức để xây dựng một pho lịch sử của dòng họ.
[1] Nay gọi là Phương Tảo
[3] Trích từ văn bia đặt tại nhà thờ họ
[4] Trích từ bản viết trên gỗ của cụ đồ Nguyễn Hữu Phối.
[5] Tài liệu này đã được cả họ thông qua
ngày 25 tháng 2 (âm lịch) năm 2003
XÂY DỰNG KHO TƯ LIỆU CỦA HỌ TỘC
Như trong lời mở đầu đã nhấn mạnh rằng những tư liệu thành
văn còn giữ lại rất ít. Những tìm tòi của nhóm khảo cứu đã tiến hành thông qua
các cuộc gặp gỡ, trò chuyện với các bậc cao niên còn sống. Đặc biệt, nhóm khảo
cứu đã mở rộng hoạt động của mình tới cả các ngành và các chi có số nhân khẩu tập
trung lớn như ngành trưởng ở Phương tảo – Vũ Thư – Thái bình, chi họ tại Phụ dực
– Thái bình, chi họ tại Hà nội. Tuy nhiên, các tư liệu thành văn (dạng văn bản)
thu thập được rất ít. Dưới đây là danh mục những tư liệu đã thu thập được.
1. Bia
đá dựng tại nhà thờ họ Nguyễn Hữu tại Phương cáp – Hiệp hoà – Vũ thư – Thái
bình. Đây là một tư liệu vô cùng quý giá và có niên đại cổ nhất trong các tư liệu
đã tìm thấy.
Bức bia này đã được tạo dựng vào mùa xuân
năm 1917. Đó là dịp dòng họ vừa xây dựng lại nhà thờ họ sau 15 năm không có nhà
thờ (do nhà thờ cũ bị bão tàn phá vào năm 1903).
Bia được khắc trên cả hai mặt với văn tự
Hán-Nôm. Mặt ngoài (hay nhìn thấy) ghi nội dung, quá trình xây dựng lại nhà thờ
cũng như những ranh giới xác định phần đất của nhà thờ. Văn bia không chỉ nhấn
mạnh đến sự đóng góp của nội tộc mà đặc biệt còn nhấn mạnh đến những đóng góp của
cả ngoại tộc. Mặt trong (thường bị khuất) lược ghi gia phả họ tộc Nguyễn Hữu. Nội
dung văn bia đã cho thấy nhiều thông tin bổ ích mà các tư liệu khác chưa làm
rõ.
2. Cuốn
“Gia phả họ tộc Nguyễn Hữu” – bản chép tay của ngành trưởng tại Phương tảo – Vũ
Thư –Thái bình. Bản chép tay này do ông Trường (con cụ Quang) lưu giữ.
Văn bản chép tay này được họ tộc thuộc
ngành trưởng chép lại và hoàn thành vào 26 tháng 7 năm 1950. Văn bản này là bản
dịch ra quốc ngữ từ văn bản gốc có niên đại “Đời vua gia long thứ 2, ngày 1
tháng 3”, tức là khoảng những năm 1840. Tuy nhiên, văn bản gốc chưa tìm thấy.
Văn bản chép tay bằng chữ quốc ngữ này chủ
yếu ghi chép về cây phả hệ của ngành trưởng tại Phương tảo mà không có ghi
chép về các ngành khác.
3. Cuốn
“Gia phả họ tộc Nguyễn Hữu” – bản viết bằng chữ quốc ngữ, do nhóm ông Nguyễn Hữu
Vân ngụ tại Phụ dực – Thái bình thực hiện. Cuốn gia phả này đã được cả họ Nguyễn
Hữu thuộc ngành tại Phương cáp thông qua ngày 25 tháng 2 (âm lịch) năm 2003. Văn
bản này mặc dù chỉ tập trung mô tả về ngành Nguyễn Hữu tại Phương cáp – Hiệp
hoà – Vũ thư – Thái bình nhưng là một dấu son ghi nhận công lao to lớn
của những người đã để hết tâm huyết cho dòng họ. Điều đặc biệt phải
nhấn mạnh rằng văn bản này là văn bản duy nhất có mô tả cây phả hệ của ngành
Phương cáp khá đầy đủ mặc dù còn có một số chi “thiếu tinh thần tham gia
ghi chép và bổ sung, hiệu chỉnh” – theo lời ông Nguyễn Hữu Vân.
4. Sắc
phong của vua Tự đức.
Đây là bảo vật của dòng họ còn giữ
lại được nguyên vẹn. Tấm đại tự này do vua Tự Đức sắc tứ (sắc phong) vào năm
1880.
Bốn chữ trên bức đại tự là: Lạc
quyên nghĩa phụ (tức là Vui vầy quyên nghĩa của người phụ nữ).
Để xác minh nguồn gốc của bức đại tự
này, chúng tôi đã tham vấn viện Hán nôm Việt nam và được biết không có tàng thư
của Việt nam ghi nhận những bức vua sắc tứ trong lịch sử giống như những số
quyết định khen tặng như ngày nay.
5. Ngoài
những cứ liệu nêu trên, nhóm khảo cứu đã tiến hành trò chuyện với các bậc cao
niên còn sống và đã ghi nhận lại một số thông tin về dòng họ mà vẫn cần xác
minh, như nêu ra dưới đây.
-
Dòng họ đã từng có sắc phong của vua và đã lưu
giữ khá lâu tại nhà thờ họ. Tuy nhiên vào thời kỳ cải cách ruộng đất số săc
phong này đã bị mất không rõ lý do. Có người cho là một trong số thành viên của
dòng họ phải đốt dy vật này (không rõ nguyên nhân!).
-
Dòng họ đã có người mở tâm cứu đói cho rất đồng
bào vào những năm có nạn đói. Tuy nhiên chưa xác định được đời nào!
Một số cứ liệu lịch sử nêu trên cho
thấy dòng họ của chúng ta còn lưu giữ rất ít tư liệu thành văn. Do vậy, các
thế hệ của dòng họ phải nỗ lực hơn nữa để sưu tầm, khảo cứu nhằm tạo dựng được
pho lịch sử thành văn phong phú của họ tộc. Công việc này không chỉ là trách
nhiệm mà còn là vinh dự của thành viên của họ tộc.
MỘT SỐ KHẢO CỨU SƠ BỘ
1.
Nguồn
gốc dòng họ
Tất cả những cứ liệu lịch sử đã cho thấy rằng
tổ nghiệp được biết đến của chúng ta là Nguyễn
Phúc Ninh[1], người đầu tiên đến đất Hương tảo
(nay gọi là Phương tảo) huyện Thư trì (nay gọi là Vũ thư), tỉnh Thái bình để dựng
nghiệp và sinh ra dòng họ Nguyễn Hữu. Những thông tin về tiên tổ của chúng ta Nguyễn Phúc Ninh chỉ vỏn vẹn vài dòng trong
các văn tự; ví dụ trong văn bia dựng tại nhà thờ họ viết rằng:
“Cao tổ Nguyễn quý công, tự Phúc Ninh (giỗ
ngày 15 tháng 4). Nguyên trước kia ở xã Lãng Lăng sau rời về xã Hương Tảo. Mộ
táng tại địa phận xã Cự Lâm thuộc tổng nhà. Mộ tọa Hỏa tinh, lưng quay về hướng
Nam, mặt nhìn về hướng Bắc.
Cao tổ tỷ Trần nhất nương([2]), hiệu Từ Nội (giỗ ngày mồng
5 tháng 5), sinh được 1 người con trai. Phần mộ trưởng chi trông giữ.” – Trích văn bia tại nhà thờ
Nguyễn Hữu tại Phương cáp.
Thân thế và sự nghiệp của tiên tổ Nguyễn Phúc Ninh chưa thấy nêu trong tài liệu nào. Tuy nhiên,
chúng ta chắc chắn một điều rằng tiên tổ của chúng ta đã vượt qua bao thăng trầm
để dựng nghiệp trên mảnh đất mà vào thời đó còn rất hoang vu.
Một điều rất đáng mừng là mộ của tiên tổ vẫn
còn được gìn giữ chu đáo mà hằng năm các thế hệ vẫn đến thắp hương, kính cẩn
bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc của mình. Tuy
nhiên, cho đến hiện nay phần mộ của tiên tổ bà Từ nội vẫn chưa được biết. Đây là một điều rất đáng tiếc, nếu
không muốn nói đó là một lỗi lầm to lớn.
Trước đời tiên tổ Nguyễn Phúc Ninh và Từ nội là ai? Đó vẫn là câu hỏi cần phải kiếm
tìm.
Thực vậy, trong văn bia đặt tại nhà thờ
Nguyễn Hữu – Phương cáp[3] không nói đến nguồn gốc xa
xôi hơn đời tiên tổ Nguyễn Phúc Ninh và
Từ nội, mà chỉ ghi lại tiên tổ đã chuyển từ Lãng lăng về Hương tảo. Ngoài ra, hai văn bản ghi chép về
dòng họ của ngành trưởng tại Phương tảo và của cụ đồ Phối ở Phụ dực đều khẳng định
dòng họ của chúng ta là họ có khởi nguồn từ xã Lãng lăng – Giao thuỷ - Xuân trường[4].
Đồng thời, dòng họ của chúng ta có tiên tổ làm quan dưới triều Mạc[5].
Văn bản quốc ngữ của ngành trưởng tại phương tảo lại nhấn mạnh rằng họ chúng
ta trước đây là họ Cự. Tuy nhiên, những
khảo cứu cho thấy dưới thời nhà Mạc chỉ có họ Cơ và là một họ lớn. Vì vậy việc khẳng định họ gốc của chúng
ta là họ Cự có thể là sai sót về dịch văn bản chữ Hán nôm? Đây là vấn
đề cần có nhiều khảo cứu thêm.
Trong những lần tiếp xúc với Viện Hán Nôm
Việt nam, chúng tôi không tìm thấy văn tự nào của họ Nguyễn Hữu hay họ Cự tại
xã Lãng lăng – Giao thuỷ - Xuân trường – Hải hậu – Nam định. Ngoài ra, cũng chưa
có ai tìm đến Lãng lăng để tiến hành khảo cứu.
Tóm lại, về nguồn gốc của dòng họ, chúng ta
mới chỉ biết đến một cách rõ ràng về tiên tổ đầu tiên đến lập nghiệp tại Thái
bình. Tuy nhiên, chúng ta còn cần khảo cứu nhiều hơn về một số vấn đề sau:
-
Nguồn gốc dòng họ tại xã Lãng lăng – Giao thuỷ -
Xuân trường – Nam định.
-
Xác định phần mộ tổ Từ nội
-
Xác định gốc là họ Cự hay họ Cơ.
-
Tìm hiểu về thân thế tiền nhân đã từng
giữ trọng trách lớn (tể tướng) của triều đình dưới thời nhà Mạc.
2.
Cây
phả hệ của dòng họ
Tất cả văn tự còn lưu giữ đều có ghi chép về
các thế hệ tiền nhân chỉ chú trọng đến thông tin về tên, huý và ngày giỗ
nhưng thông tin về phần mộ lại tương đối sơ sài. Đặc biệt, những tài liệu này
đều ở dạng lược ghi nên rất ít thông tin chi tiết và ít chú trọng đến nữ giới.
Vì vậy, chúng ta sẽ phải cùng nhau khảo cứu, bổ sung cho đầy đủ. Đây không những
là niềm tự hào về dòng tộc mà còn là trách nhiệm đối với các thế hệ sau.
So sánh cây phả hệ được nhóm ông Nguyễn Hữu
Vân – Phụ dực xây dựng với văn bia của nhà thờ họ Nguyễn Hữu – Phương cáp và bản
dịch sang quốc ngữ về gia phả họ Nguyễn hữu của ngành trưởng – Phương tảo, đã
cho chúng ta thấy rằng từ đời tiên tổ Nguyễn
Phúc Ninh đến đời các tiên tổ lập nghiệp tại Phương cáp phải có thêm một đời
nữa. Đó là đời tiên tổ Nguyễn Phúc Hoan.
Nói một cách khác, cụ Nguyễn Phúc Ninh sinh ra cụ Nguyễn Phúc Hoan. Cụ nguyễn
Phúc Hoan sinh ra bốn người con trai. Người con trưởng của cụ ở lại Phương tảo
và sinh ra ngành trưởng – Phương tảo. Người con thứ hai của cụ dy sang Thanh bản
(xã cạnh Phương tảo). Hai người con tiếp theo của cụ dy về Phương cáp để sinh
ra ngành Nguyễn Hữu - Phương cáp.
Trong những tư liệu còn giữ lại chỉ thấy
nêu ra có một ngành Nguyễn Hữu ở Thanh bản. Ngành trưởng – Phương tảo đã có người
tìm đến Thanh bản và được biết có dòng Nguyễn Hữu rất lớn ở Thanh bản. Tuy
nhiên, trưởng tộc ở đó cương quyết khẳng định không phải thuộc gốc tại Phương tảo.
Văn bản dòng họ Nguyễn Hữu của ngành trưởng
tại Phương tảo ghi chép khá đầy đủ về cây phả hệ từ đời sau đời cụ Nguyễn Phúc
Hoan về sau.
Văn bản dòng họ Nguyễn Hữu ngành Phương cáp
đã xây dựng được cây phả hệ khá chi tiết từ cụ khởi thuỷ dựng nghiệp ở Phương
cáp. Tuy nhiên, chỉ có cây phả hệ của chi Nguyễn Hữu – Phụ dực được mô tả đầy đủ
nhất. Một số chi trong cây gia phả vẫn còn để ngỏ và cần có nhiều công sức để phục
dựng.
[1] Nhiều người đọc và viết là Nguyễn Phúc Linh là sai.
[4] Thuộc địa phận tỉnh Nam định.
1.
Chăm
lo phần mộ của tổ tiên
Họ Nguyễn Hữu của chúng ta luôn duy trì được
truyền thống gìn giữ mộ phần của tiên tổ. Thông thường mỗi chi, nhánh đề rất
chú trọng đến phần mộ đời thứ 4 trở lại. Tuy nhiên, những phần mộ các đời trước
lại ít được quan tâm đúng mức với nhiều lý do khác nhau. Một số thành viên của
dòng họ đã tự ý dy dời hoặc xâm hại đến phần mộ chung mà tiên tổ đã an táng.
Chúng ta nên tránh những việc làm tương tự. Những việc liên quan đến mộ phần
tiên tổ phải được bàn bạc trong họ.
Vào những năm gần đây, chúng tôi, những người
thuộc ngành Nguyễn Hữu - Phương cáp đã có nhiều hoạt động để có thể xây dựng được
bản đồ mộ phần của dòng họ để rồi cùng nhau góp sức duy tu, bảo dưỡng và chăm
sóc. Một trong những hoạt động đó là kết nối với ngành trưởng để biết được
thông tin về mộ phần của tổ tiên. Trước đây, do có sự bất hoà giữa hai ngành
(ngành trưởng Nguyễn hữu - Phương cáp và ngành Nguyễn Hữu – Phương tảo) trong
việc dy dời mộ cụ tổ từ Phương cáp sang Phương tảo. Nay, mộ tổ bị dy dời đã được
biết chính xác vị trí.
Gần đây, khi dịch văn bia đặt tại nhà thờ,
chúng ta mới biết thêm thong tin: có rất nhiều phần mộ được đặt tại xứ Cây Chanh
– Phương cáp. Dòng họ chúng ta phải cùng nhau chung sức tìm kiếm vào gìn giữ.
Tóm lại, dòng họ chúng ta sẽ phải cùng nhau
chăm lo đến mộ phần của tiên tổ. Những thông tin thu được từ tư liệu đòi hỏi
chúng ta phải nỗ lực không ngừng để chăm lo đến mộ phần của tiên tổ, đúng với
đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”.
Chăm
lo nhà thờ họ
Nhà thờ họ là biểu tượng của dòng họ, là sức
sống và nguồn nước nuôi dưỡng các thế hệ. Tổ tiên của chúng ta đã ý thức và
luôn chăm lo đến nhà thờ họ. Chính vì vậy ngày nay chúng ta mới có được dy sản
vô cùng quý giá.
Cho đến thời điểm hiện nay, từ những
tài liệu thu thập được cũng như những lời kể lại của những bậc cao niên còn sống
đều cho thấy rằng không thể biết Nhà thờ họ Nguyễn Hữu – Phương cáp được bắt đầu
tạo dựng từ năm nào. Chỉ biết rằng vào năm 1903 bão đã làm đổ nhà thờ, sau đó
dòng họ đã cùng nhau khởi công xây dựng lại vào mùa thu 1916 và hoàn thành vào
năm 1917. Văn bia viết rằng:
“Từ đường họ
nhà ta vào năm Quý Mão[1]
do bị trận gió bão quật đổ, trải qua 15 năm mà vẫn chưa tạo dựng lại được nên
các tiết giỗ chạp đều sắp bày tại tư gia con cháu. Trước hoàn cảnh ấy, mọi người
ai ấy đều động lòng bèn cùng nhau hội họp và thống nhất dựng lại trên nền đất
cũ. Công việc được tiến hành khởi công từ mùa thu năm ngoái cho đến mùa xuân
năm nay thì hoàn thành. Việc xong, tính tổng cộng chi tiêu các khoản cho công
việc trên hết 500 đồng, trong đó tiền của trong họ là 240 đồng, còn thiếu 260 đồng.
Số tiền thiếu này sẽ tính bổ đều cho giáp Đệ Nhất và các con cháu hai bên nội
ngoại tiến cúng để bù cho đủ phần còn thiếu ấy.” - Ngày lành tháng 2 năm Mậu Ngọ niên hiệu Khải Định 3 (1917) lập văn bia.
Như vậy, Nhà thờ họ đã có từ
trước năm Quý Mão (1903).
Cho đến ngày nay, Nhà thờ họ Nguyễn
Hữu đã tồn tại gần một thế kỷ, kể từ ngày xây dựng lại (1916).
Trải qua năm tháng, Nhà thờ họ đã
được sửa chữa và tôn tạo nhiều lần dưới sự quan tâm, đóng góp của nhiều thế hệ.
Vào năm 1999, dòng họ đã góp công,
góp của để tôn tạo Nhà thờ họ trong phạm vi giữ nguyên kết cấu cũ. Việc tu sửa
chỉ nhằm thay thế những chi tiết bị hỏng (chủ yếu là các chi tiết bằng gỗ), tường
bao, hoa văn trang trí. Chủ trì công việc tu sửa được giao cho ông Nguyễn Hữu
Thọ[2].
Đặc biệt, trong ba bức hoành phi (vẫn còn treo trong Nhà thờ họ) đã có một bức
được phục chế lại hoàn toàn.
Vào ngày giỗ họ (25 tháng 2 âm lịch)
của năm 2011, dòng họ đã họp và thống nhất phải sửa chữa và tôn tạo Nhà thờ.
Vào mùa thu năm 2012, Nhà thờ họ
đã chính thức được khởi công tôn tạo (2 tháng 10 âm lịch) và hoàn thành vào
ngày 11 tháng 12 âm lịch (ngày rước vong linh tổ tiên về nhà mới), trước tết
âm lịch. Ngày chính thức tuyên bố khánh thành là ngày giỗ họ 25 tháng 2 âm lịch,
năm 2013. Lần tôn tạo này đã có nhiều thay đổi lớn được tóm tắt như sau:
-
Giữ nguyên hướng cũ (chính Bắc-Nam, mặt nhìn hướng
Bắc, toạ Nam).
-
Mở rộng lòng nhà bốn bề (từ kích thước 7,8m x
6,1m thành 8,66m x 8,59m).
-
Tiến về phía trước 1m, dịch sang phải (theo hường
nhìn vào nhà thờ) 1,5m.
-
Nền nhà được nâng cao thành 1m so với nền sân mới.
Chiều cao của nhà được nâng cao (từ 4,1m thành 4,65m, tính từ nền nhà). Lòng
nhà cũng được mở rộng (kích thước gian giữa 2,42 x 2,05m và hai gian bên 2,4m x
2,05m thành kích thước tương ứng 2,82 x 3,61m và 2,4m x 3,61m).
-
Toàn bộ tường bao, nền nhà, mái nhà và kết cấu
mái nhà được dựng mới hoàn toàn; mua bổ sung và thay thế 4 cột hiên ngoài, 1 cột
hiên trong.
-
Toàn bộ chi tiết bằng gỗ phải thay thế, làm mới
đều bằng gỗ lim[3]
(kể cả phần mái). Làm mới một bộ cửa của gian chính giữa.
-
Toàn bộ hàng rào và sân được tôn tạo và xây lại.
-
Tổng số chi phí đến trước ngày khánh thành
(25-2-2013 âm lịch) là: 662.147.000 đồng.
-
Tổng số đóng góp theo xuất đinh của toàn dòng họ
đến trước ngày khánh thành: 123.000.000 đồng (tướng ứng với 122 xuất đinh
và 01 xuất nữ tộc).
-
Tổng số đóng góp theo hảo tâm đến trước ngày
khánh thành: 528.600.000 đồng.
-
Tổng số còn thiếu tính đến trước ngày khánh
thành: 10.547.000 đồng.
Ghi
chú: Xin xem Phụ lục - Chi tiết đóng góp
xây dựng Nhà thờ họ.
Một số kỷ vật của dòng họ
Nhà thờ họ còn giữ được một số kỷ vật thiêng
liêng.
A. Bát
hương, ngai thờ.
Tại gian chính giữa còn lưu giữ được bát hương và ngai thờ cổ mà vẫn niên
đại chưa xác định được. Tuy nhiên, có thể giả định rằng đây là kỷ vật có từ
khi xây dựng lại gần nhất (năm 1917).
B.
Bộ 3 bức hoành phi.
Bức 1:
- Ý nghĩa: Xương quyết hậu; tức là “Con
cháu thịnh sang”.
- Với bức hoành này phải đọc từ
giữa, sau đó sang chữ bên phải và bên trái.
-
Hậu (後
), Xương (昌
), quyết (厥
) = Xương quyết hậu. Nguyên đủ của câu này là:
“Khắc xương quyết hậu 克 昌 厥 後 ”
Bức 2: Bức này được sắc
tứ (sắc ban) vào năm Tự Đức 33 (1880).
- Ý nghĩa: Lạc quyên nghĩa phụ; tức là “Vui
vầy quyên nghĩa của người phụ nữ”.
- Với bức này đọc bình thường
từ phải sang trái.
-
Phụ (婦
), Nghĩa (義 ), Quyên (捐 ), Lạc (樂 ) = Lạc quyên nghĩa phụ.
Bức 3:
- Ý nghĩa: Khai tất tiên; tức là “Sự khai mở ắt
có người đi đầu”.
- Bức này cũng đọc từ phải
sang trái.
- Tiên (先 ), Tất (必 ), Khai (開 ) = Khai tất tiên. Nguyên đủ của câu này là: Hữu khai tất tiên 有 開 必 先 . (Có sự khai mở thì tất phải
có người đi đầu).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét