Thứ Hai, 28 tháng 7, 2014

Lược sử dòng họ Nguyễn Hữu-Vũ Thư-Thái BÌnh

LƯỢC SỬ DÒNG HỌ

LỜI NÓI ĐẦU

Theo dòng thời gian, dòng họ Nguyễn Hữu đã trường tồn và phát triển không ngừng từ ngày tổ nghiệp Nguyễn Phúc Ninh đến đất Hương tảo[1], Thư trì[2], Thái Bình để dựng nghiệp. Đến nay, hậu duệ đòng họ Nguyễn Hữu đã toả đi khắp nơi không những trên tổ quốc Việt Nam mà còn có mặt và lập nghiệp tại nước ngoài. Cho dù ở đâu, hậu duệ của dòng họ Nguyễn Hữu luôn một lòng hướng về cội nguồn, đoàn kết, đùm bọc, yêu thương nhau và noi theo truyền thống tốt đẹp mà tiền nhân đã dày công xây dựng và bồi đắp.
Do những biến cố lịch sử nên những thư tịch của dòng họ còn giữ lại rất hiếm; nhưng sự trường tồn của ngôi nhà thờ họ, tấm bia đá được dựng vào năm 1917 và bút tích của cụ đồ Nguyễn Hữu Phối viết trên gỗ là những chứng tích lịch sử cho thấy tổ tên của chúng ta là những người rất chú trọng đến công việc xây dựng truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” của dòng họ. Chẳng thế mà những áng văn mở đầu của văn bia đặt tại nhà thờ họ đã viết:
Thường nghe: Nghìn cành vạn lá của cây đều phải bắt đầu từ gốc, vạn mạch nghìn dòng của nước cũng đều phải bắt đầu từ nguồn, còn con người thì vốn bắt đầu từ tổ tiên mà ra. Bởi vậy cho nên mới có việc lập phả và khắc vào bia đá truyền lại cho con cháu hậu thế thấy mà biết được nguồn gốc, đất đai của dòng họ để từ đó hiểu rõ công đức của tổ tông trăm đời chẳng đổi rời, con hiếu cháu hiền muôn thuở như còn thấy ngay ở trước mặt, đó há chẳng phải là vĩ đại lắm thay![3]
Hay như áng văn mở đầu của bản “Lược ghi dòng họ Nguyễn Hữu” của cụ đồ Nguyễn Hữu Phối cũng đã viết như sau:
“Thường nghe: Mọi vạn vật ở đời đều phải có cội nguồn gốc gác. Con người cũng vậy, con người ta khi sinh ra ở đời đều phải xuất phát khởi nguồn từ tổ tiên. Tổ tiên ta luôn tích đức đắp bồi điều nhân để gây dựng cho thế hệ sau càng thêm lớn mạnh. Công đức ấy thực là lớn lao mênh mông đến vô cùng. Nhìn lại thấy, nghìn cành vạn lá cây còn phải có gốc, một dòng nước còn phải vạn mạch nước mà thành, huống hồ là con người. Các thế hệ con con cháu cháu kế tục nối tiếp nhau đến muôn đời không rứt phồn thịnh, ấy há chẳng phải là nhờ đức của tiên tổ ta đó sao. Vậy nên các thế hệ con cháu đâu có thể dám quên mà phải luôn đem lòng báo đức uống nước nhớ nguồn và truyền lại mãi cho con cháu đời sau.”[4]
Nối gót tổ tiên, vào những năm 2000, nhóm hậu duệ tại Phụ dực – Thái bình, đứng đầu là ông Nguyễn Hữu Vân đã dày công thu thập và ghi chép lại gia phả của dòng họ. Kể từ đó dòng họ Nguyễn Hữu đã có thêm một tư liệu quý giá[5], đặc biệt là việc xây dựng cây phả hệ. Kế tục sự nghiệp của các thế hệ trước, một nhóm hậu duệ tại Phương cáp - Hiệp hoà - Vũ thư - Thái bình cũng đã bắt đầu tiến hành những khảo cứu để bổ sung vào những tư liệu của dòng họ. Do bị hạn chế về thời gian nên công việc vẫn chưa được tiến hành một cách hệ thống và kết quả thu được vẫn chưa được nhiều. Mặc dù vậy, chúng tôi mạo muội tạo dựng tài liệu này nhằm làm sáng tỏ thêm những thông tin về dòng họ cũng như đưa ra một số vấn đề để toàn bộ họ tộc cùng nhau góp sức để xây dựng một pho lịch sử của dòng họ.



[1] Nay gọi là Phương Tảo
[2] Nay gọi là Vũ Thư
[3] Trích từ văn bia đặt tại nhà thờ họ
[4] Trích từ bản viết trên gỗ của cụ đồ Nguyễn Hữu Phối.
[5] Tài liệu này đã được cả họ thông qua ngày 25 tháng 2 (âm lịch) năm 2003

XÂY DỰNG KHO TƯ LIỆU CỦA HỌ TỘC

Như trong lời mở đầu đã nhấn mạnh rằng những tư liệu thành văn còn giữ lại rất ít. Những tìm tòi của nhóm khảo cứu đã tiến hành thông qua các cuộc gặp gỡ, trò chuyện với các bậc cao niên còn sống. Đặc biệt, nhóm khảo cứu đã mở rộng hoạt động của mình tới cả các ngành và các chi có số nhân khẩu tập trung lớn như ngành trưởng ở Phương tảo – Vũ Thư – Thái bình, chi họ tại Phụ dực – Thái bình, chi họ tại Hà nội. Tuy nhiên, các tư liệu thành văn (dạng văn bản) thu thập được rất ít. Dưới đây là danh mục những tư liệu đã thu thập được.
1.    Bia đá dựng tại nhà thờ họ Nguyễn Hữu tại Phương cáp – Hiệp hoà – Vũ thư – Thái bình. Đây là một tư liệu vô cùng quý giá và có niên đại cổ nhất trong các tư liệu đã tìm thấy.
Bức bia này đã được tạo dựng vào mùa xuân năm 1917. Đó là dịp dòng họ vừa xây dựng lại nhà thờ họ sau 15 năm không có nhà thờ (do nhà thờ cũ bị bão tàn phá vào năm 1903).
Bia được khắc trên cả hai mặt với văn tự Hán-Nôm. Mặt ngoài (hay nhìn thấy) ghi nội dung, quá trình xây dựng lại nhà thờ cũng như những ranh giới xác định phần đất của nhà thờ. Văn bia không chỉ nhấn mạnh đến sự đóng góp của nội tộc mà đặc biệt còn nhấn mạnh đến những đóng góp của cả ngoại tộc. Mặt trong (thường bị khuất) lược ghi gia phả họ tộc Nguyễn Hữu. Nội dung văn bia đã cho thấy nhiều thông tin bổ ích mà các tư liệu khác chưa làm rõ.
2.    Cuốn “Gia phả họ tộc Nguyễn Hữu” – bản chép tay của ngành trưởng tại Phương tảo – Vũ Thư –Thái bình. Bản chép tay này do ông Trường (con cụ Quang) lưu giữ.
Văn bản chép tay này được họ tộc thuộc ngành trưởng chép lại và hoàn thành vào 26 tháng 7 năm 1950. Văn bản này là bản dịch ra quốc ngữ từ văn bản gốc có niên đại “Đời vua gia long thứ 2, ngày 1 tháng 3”, tức là khoảng những năm 1840. Tuy nhiên, văn bản gốc chưa tìm thấy.
Văn bản chép tay bằng chữ quốc ngữ này chủ yếu ghi chép về cây phả hệ của ngành trưởng tại Phương tảo mà không có ghi chép về các ngành khác.
3.    Cuốn “Gia phả họ tộc Nguyễn Hữu” – bản viết bằng chữ quốc ngữ, do nhóm ông Nguyễn Hữu Vân ngụ tại Phụ dực – Thái bình thực hiện. Cuốn gia phả này đã được cả họ Nguyễn Hữu thuộc ngành tại Phương cáp thông qua ngày 25 tháng 2 (âm lịch) năm 2003. Văn bản này mặc dù chỉ tập trung mô tả về ngành Nguyễn Hữu tại Phương cáp – Hiệp hoà – Vũ thư – Thái bình nhưng là một dấu son ghi nhận công lao to lớn của những người đã để hết tâm huyết cho dòng họ. Điều đặc biệt phải nhấn mạnh rằng văn bản này là văn bản duy nhất có mô tả cây phả hệ của ngành Phương cáp khá đầy đủ mặc dù còn có một số chi “thiếu tinh thần tham gia ghi chép và bổ sung, hiệu chỉnh” – theo lời ông Nguyễn Hữu Vân.
4.    Sắc phong của vua Tự đức.
Đây là bảo vật của dòng họ còn giữ lại được nguyên vẹn. Tấm đại tự này do vua Tự Đức sắc tứ (sắc phong) vào năm 1880.



Bốn chữ trên bức đại tự là: Lạc quyên nghĩa phụ (tức là Vui vầy quyên nghĩa của người phụ nữ).
Để xác minh nguồn gốc của bức đại tự này, chúng tôi đã tham vấn viện Hán nôm Việt nam và được biết không có tàng thư của Việt nam ghi nhận những bức vua sắc tứ trong lịch sử giống như những số quyết định khen tặng như ngày nay.
5.    Ngoài những cứ liệu nêu trên, nhóm khảo cứu đã tiến hành trò chuyện với các bậc cao niên còn sống và đã ghi nhận lại một số thông tin về dòng họ mà vẫn cần xác minh, như nêu ra dưới đây.
-         Dòng họ đã từng có sắc phong của vua và đã lưu giữ khá lâu tại nhà thờ họ. Tuy nhiên vào thời kỳ cải cách ruộng đất số săc phong này đã bị mất không rõ lý do. Có người cho là một trong số thành viên của dòng họ phải đốt dy vật này (không rõ nguyên nhân!).
-         Dòng họ đã có người mở tâm cứu đói cho rất đồng bào vào những năm có nạn đói. Tuy nhiên chưa xác định được đời nào!
Một số cứ liệu lịch sử nêu trên cho thấy dòng họ của chúng ta còn lưu giữ rất ít tư liệu thành văn. Do vậy, các thế hệ của dòng họ phải nỗ lực hơn nữa để sưu tầm, khảo cứu nhằm tạo dựng được pho lịch sử thành văn phong phú của họ tộc. Công việc này không chỉ là trách nhiệm mà còn là vinh dự của thành viên của họ tộc.

MỘT SỐ KHẢO CỨU SƠ BỘ

1.    Nguồn gốc dòng họ
Tất cả những cứ liệu lịch sử đã cho thấy rằng tổ nghiệp được biết đến của chúng ta là Nguyễn Phúc Ninh[1], người đầu tiên đến đất Hương tảo (nay gọi là Phương tảo) huyện Thư trì (nay gọi là Vũ thư), tỉnh Thái bình để dựng nghiệp và sinh ra dòng họ Nguyễn Hữu. Những thông tin về tiên tổ của chúng ta Nguyễn Phúc Ninh chỉ vỏn vẹn vài dòng trong các văn tự; ví dụ trong văn bia dựng tại nhà thờ họ viết rằng:
“Cao tổ Nguyễn quý công, tự Phúc Ninh (giỗ ngày 15 tháng 4). Nguyên trước kia ở xã Lãng Lăng sau rời về xã Hương Tảo. Mộ táng tại địa phận xã Cự Lâm thuộc tổng nhà. Mộ tọa Hỏa tinh, lưng quay về hướng Nam, mặt nhìn về hướng Bắc.
Cao tổ tỷ Trần nhất nương([2]), hiệu Từ Nội (giỗ ngày mồng 5 tháng 5), sinh được 1 người con trai. Phần mộ trưởng chi trông giữ.” – Trích văn bia tại nhà thờ Nguyễn Hữu tại Phương cáp.
Thân thế và sự nghiệp của tiên tổ Nguyễn Phúc Ninh chưa thấy nêu trong tài liệu nào. Tuy nhiên, chúng ta chắc chắn một điều rằng tiên tổ của chúng ta đã vượt qua bao thăng trầm để dựng nghiệp trên mảnh đất mà vào thời đó còn rất hoang vu.
Một điều rất đáng mừng là mộ của tiên tổ vẫn còn được gìn giữ chu đáo mà hằng năm các thế hệ vẫn đến thắp hương, kính cẩn bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc của mình. Tuy nhiên, cho đến hiện nay phần mộ của tiên tổ bà Từ nội vẫn chưa được biết. Đây là một điều rất đáng tiếc, nếu không muốn nói đó là một lỗi lầm to lớn.
Trước đời tiên tổ Nguyễn Phúc Ninh và Từ nội là ai? Đó vẫn là câu hỏi cần phải kiếm tìm.
Thực vậy, trong văn bia đặt tại nhà thờ Nguyễn Hữu – Phương cáp[3] không nói đến nguồn gốc xa xôi hơn đời tiên tổ Nguyễn Phúc Ninh và Từ nội, mà chỉ ghi lại tiên tổ đã chuyển từ Lãng lăng về Hương tảo. Ngoài rahai văn bản ghi chép về dòng họ của ngành trưởng tại Phương tảo và của cụ đồ Phối ở Phụ dực đều khẳng định dòng họ của chúng ta là họ có khởi nguồn từ xã Lãng lăng – Giao thuỷ - Xuân trường[4]. Đồng thời, dòng họ của chúng ta có tiên tổ làm quan dưới triều Mạc[5]. Văn bản quốc ngữ của ngành trưởng tại phương tảo lại nhấn mạnh rằng họ chúng ta trước đây là họ Cự. Tuy nhiên, những khảo cứu cho thấy dưới thời nhà Mạc chỉ có họ và là một họ lớn. Vì vậy việc khẳng định họ gốc của chúng ta là họ Cự có thể là sai sót về dịch văn bản chữ Hán nôm? Đây là vấn đề cần có nhiều khảo cứu thêm.
Trong những lần tiếp xúc với Viện Hán Nôm Việt nam, chúng tôi không tìm thấy văn tự nào của họ Nguyễn Hữu hay họ Cự tại xã Lãng lăng – Giao thuỷ - Xuân trường – Hải hậu – Nam định. Ngoài ra, cũng chưa có ai tìm đến Lãng lăng để tiến hành khảo cứu.

Tóm lại, về nguồn gốc của dòng họ, chúng ta mới chỉ biết đến một cách rõ ràng về tiên tổ đầu tiên đến lập nghiệp tại Thái bình. Tuy nhiên, chúng ta còn cần khảo cứu nhiều hơn về một số vấn đề sau:
-         Nguồn gốc dòng họ tại xã Lãng lăng – Giao thuỷ - Xuân trường – Nam định.
-         Xác định phần mộ tổ Từ nội
-         Xác định gốc là họ Cự hay họ Cơ.
-         Tìm hiểu về thân thế tiền nhân đã từng giữ trọng trách lớn (tể tướng) của triều đình dưới thời nhà Mạc.

2.    Cây phả hệ của dòng họ
Tất cả văn tự còn lưu giữ đều có ghi chép về các thế hệ tiền nhân chỉ chú trọng đến thông tin về tên, huý và ngày giỗ nhưng thông tin về phần mộ lại tương đối sơ sài. Đặc biệt, những tài liệu này đều ở dạng lược ghi nên rất ít thông tin chi tiết và ít chú trọng đến nữ giới. Vì vậy, chúng ta sẽ phải cùng nhau khảo cứu, bổ sung cho đầy đủ. Đây không những là niềm tự hào về dòng tộc mà còn là trách nhiệm đối với các thế hệ sau.
So sánh cây phả hệ được nhóm ông Nguyễn Hữu Vân – Phụ dực xây dựng với văn bia của nhà thờ họ Nguyễn Hữu – Phương cáp và bản dịch sang quốc ngữ về gia phả họ Nguyễn hữu của ngành trưởng – Phương tảo, đã cho chúng ta thấy rằng từ đời tiên tổ Nguyễn Phúc Ninh đến đời các tiên tổ lập nghiệp tại Phương cáp phải có thêm một đời nữa. Đó là đời tiên tổ Nguyễn Phúc Hoan. Nói một cách khác, cụ Nguyễn Phúc Ninh sinh ra cụ Nguyễn Phúc Hoan. Cụ nguyễn Phúc Hoan sinh ra bốn người con trai. Người con trưởng của cụ ở lại Phương tảo và sinh ra ngành trưởng – Phương tảo. Người con thứ hai của cụ dy sang Thanh bản (xã cạnh Phương tảo). Hai người con tiếp theo của cụ dy về Phương cáp để sinh ra ngành Nguyễn Hữu - Phương cáp.
Trong những tư liệu còn giữ lại chỉ thấy nêu ra có một ngành Nguyễn Hữu ở Thanh bản. Ngành trưởng – Phương tảo đã có người tìm đến Thanh bản và được biết có dòng Nguyễn Hữu rất lớn ở Thanh bản. Tuy nhiên, trưởng tộc ở đó cương quyết khẳng định không phải thuộc gốc tại Phương tảo.
Văn bản dòng họ Nguyễn Hữu của ngành trưởng tại Phương tảo ghi chép khá đầy đủ về cây phả hệ từ đời sau đời cụ Nguyễn Phúc Hoan về sau.
Văn bản dòng họ Nguyễn Hữu ngành Phương cáp đã xây dựng được cây phả hệ khá chi tiết từ cụ khởi thuỷ dựng nghiệp ở Phương cáp. Tuy nhiên, chỉ có cây phả hệ của chi Nguyễn Hữu – Phụ dực được mô tả đầy đủ nhất. Một số chi trong cây gia phả vẫn còn để ngỏ và cần có nhiều công sức để phục dựng.

Tóm lại, việc mô tả cây phả hệ của dòng họ mới chỉ dừng lại ở một số thông tin cơ bản như tên, tự, ngày giỗ, phần mộ (thường ghi sơ sài). Những thông tin về thân thế, sự nghiệp, công trạng và đặc biệt là nữ giới không được chú trọng. Những điều này cho thấy các thế hệ đương thời cần phải cùng nhau chung tay, góp sức để bổ sung vào pho sử của dòng họ.



[1] Nhiều người đọc và viết là Nguyễn Phúc Linh là sai.
[2] Trần nhất nương: Người con gái cả của họ Trần.

[4] Thuộc địa phận tỉnh Nam định.
[5] Thời nhà Mạc từ 1527 đến 1592.

1.    Chăm lo phần mộ của tổ tiên
Họ Nguyễn Hữu của chúng ta luôn duy trì được truyền thống gìn giữ mộ phần của tiên tổ. Thông thường mỗi chi, nhánh đề rất chú trọng đến phần mộ đời thứ 4 trở lại. Tuy nhiên, những phần mộ các đời trước lại ít được quan tâm đúng mức với nhiều lý do khác nhau. Một số thành viên của dòng họ đã tự ý dy dời hoặc xâm hại đến phần mộ chung mà tiên tổ đã an táng. Chúng ta nên tránh những việc làm tương tự. Những việc liên quan đến mộ phần tiên tổ phải được bàn bạc trong họ.
Vào những năm gần đây, chúng tôi, những người thuộc ngành Nguyễn Hữu - Phương cáp đã có nhiều hoạt động để có thể xây dựng được bản đồ mộ phần của dòng họ để rồi cùng nhau góp sức duy tu, bảo dưỡng và chăm sóc. Một trong những hoạt động đó là kết nối với ngành trưởng để biết được thông tin về mộ phần của tổ tiên. Trước đây, do có sự bất hoà giữa hai ngành (ngành trưởng Nguyễn hữu - Phương cáp và ngành Nguyễn Hữu – Phương tảo) trong việc dy dời mộ cụ tổ từ Phương cáp sang Phương tảo. Nay, mộ tổ bị dy dời đã được biết chính xác vị trí.
Gần đây, khi dịch văn bia đặt tại nhà thờ, chúng ta mới biết thêm thong tin: có rất nhiều phần mộ được đặt tại xứ Cây Chanh – Phương cáp. Dòng họ chúng ta phải cùng nhau chung sức tìm kiếm vào gìn giữ.
Tóm lại, dòng họ chúng ta sẽ phải cùng nhau chăm lo đến mộ phần của tiên tổ. Những thông tin thu được từ tư liệu đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực không ngừng để chăm lo đến mộ phần của tiên tổ, đúng với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”.

 Chăm lo nhà thờ họ

Nhà thờ họ là biểu tượng của dòng họ, là sức sống và nguồn nước nuôi dưỡng các thế hệ. Tổ tiên của chúng ta đã ý thức và luôn chăm lo đến nhà thờ họ. Chính vì vậy ngày nay chúng ta mới có được dy sản vô cùng quý giá.
Cho đến thời điểm hiện nay, từ những tài liệu thu thập được cũng như những lời kể lại của những bậc cao niên còn sống đều cho thấy rằng không thể biết Nhà thờ họ Nguyễn Hữu – Phương cáp được bắt đầu tạo dựng từ năm nào. Chỉ biết rằng vào năm 1903 bão đã làm đổ nhà thờ, sau đó dòng họ đã cùng nhau khởi công xây dựng lại vào mùa thu 1916 và hoàn thành vào năm 1917. Văn bia viết rằng:
“Từ đường họ nhà ta vào năm Quý Mão[1] do bị trận gió bão quật đổ, trải qua 15 năm mà vẫn chưa tạo dựng lại được nên các tiết giỗ chạp đều sắp bày tại tư gia con cháu. Trước hoàn cảnh ấy, mọi người ai ấy đều động lòng bèn cùng nhau hội họp và thống nhất dựng lại trên nền đất cũ. Công việc được tiến hành khởi công từ mùa thu năm ngoái cho đến mùa xuân năm nay thì hoàn thành. Việc xong, tính tổng cộng chi tiêu các khoản cho công việc trên hết 500 đồng, trong đó tiền của trong họ là 240 đồng, còn thiếu 260 đồng. Số tiền thiếu này sẽ tính bổ đều cho giáp Đệ Nhất và các con cháu hai bên nội ngoại tiến cúng để bù cho đủ phần còn thiếu ấy.” - Ngày lành tháng 2 năm Mậu Ngọ niên hiệu Khải Định 3 (1917) lập văn bia.
Như vậy, Nhà thờ họ đã có từ trước năm Quý Mão (1903).
Cho đến ngày nay, Nhà thờ họ Nguyễn Hữu đã tồn tại gần một thế kỷ, kể từ ngày xây dựng lại (1916).
Trải qua năm tháng, Nhà thờ họ đã được sửa chữa và tôn tạo nhiều lần dưới sự quan tâm, đóng góp của nhiều thế hệ.
Vào năm 1999, dòng họ đã góp công, góp của để tôn tạo Nhà thờ họ trong phạm vi giữ nguyên kết cấu cũ. Việc tu sửa chỉ nhằm thay thế những chi tiết bị hỏng (chủ yếu là các chi tiết bằng gỗ), tường bao, hoa văn trang trí. Chủ trì công việc tu sửa được giao cho ông Nguyễn Hữu Thọ[2]. Đặc biệt, trong ba bức hoành phi (vẫn còn treo trong Nhà thờ họ) đã có một bức được phục chế lại hoàn toàn.
Vào ngày giỗ họ (25 tháng 2 âm lịch) của năm 2011, dòng họ đã họp và thống nhất phải sửa chữa và tôn tạo Nhà thờ.
Vào mùa thu năm 2012, Nhà thờ họ đã chính thức được khởi công tôn tạo (2 tháng 10 âm lịch) và hoàn thành vào ngày 11 tháng 12 âm lịch (ngày rước vong linh tổ tiên về nhà mới), trước tết âm lịch. Ngày chính thức tuyên bố khánh thành là ngày giỗ họ 25 tháng 2 âm lịch, năm 2013. Lần tôn tạo này đã có nhiều thay đổi lớn được tóm tắt như sau:
-      Giữ nguyên hướng cũ (chính Bắc-Nam, mặt nhìn hướng Bắc, toạ Nam).
-      Mở rộng lòng nhà bốn bề (từ kích thước 7,8m x 6,1m thành 8,66m x 8,59m).
-      Tiến về phía trước 1m, dịch sang phải (theo hường nhìn vào nhà thờ) 1,5m.
-      Nền nhà được nâng cao thành 1m so với nền sân mới. Chiều cao của nhà được nâng cao (từ 4,1m thành 4,65m, tính từ nền nhà). Lòng nhà cũng được mở rộng (kích thước gian giữa 2,42 x 2,05m và hai gian bên 2,4m x 2,05m thành kích thước tương ứng 2,82 x 3,61m và 2,4m x 3,61m).
-      Toàn bộ tường bao, nền nhà, mái nhà và kết cấu mái nhà được dựng mới hoàn toàn; mua bổ sung và thay thế 4 cột hiên ngoài, 1 cột hiên trong.
-      Toàn bộ chi tiết bằng gỗ phải thay thế, làm mới đều bằng gỗ lim[3] (kể cả phần mái). Làm mới một bộ cửa của gian chính giữa.
-      Toàn bộ hàng rào và sân được tôn tạo và xây lại.
-      Tổng số chi phí đến trước ngày khánh thành (25-2-2013 âm lịch) là: 662.147.000 đồng.
-      Tổng số đóng góp theo xuất đinh của toàn dòng họ đến trước ngày khánh thành: 123.000.000 đồng (tướng ứng với 122 xuất đinh và 01 xuất nữ tộc).
-      Tổng số đóng góp theo hảo tâm đến trước ngày khánh thành: 528.600.000 đồng.
-      Tổng số còn thiếu tính đến trước ngày khánh thành: 10.547.000 đồng.
Ghi chú: Xin xem Phụ lục - Chi tiết đóng góp xây dựng Nhà thờ họ.

Một số kỷ vật của dòng họ

Nhà thờ họ còn giữ được một số kỷ vật thiêng liêng.

             A.       Bát hương, ngai thờ.
Tại gian chính giữa còn lưu giữ được bát hương và ngai thờ cổ mà vẫn niên đại chưa xác định được. Tuy nhiên, có thể giả định rằng đây là kỷ vật có từ khi xây dựng lại gần nhất (năm 1917).

B.        Bộ 3 bức hoành phi.

Bức 1:


-      Ý nghĩa: Xương quyết hậu; tức là “Con cháu thịnh sang”.
-      Với bức hoành này phải đọc từ giữa, sau đó sang chữ bên phải và bên trái.
-      Hậu ( ), Xương ( ), quyết ( ) = Xương quyết hậu. Nguyên đủ của câu này là:
Khắc xương quyết hậu 克 昌 厥 後

Bức 2: Bức này được sắc tứ (sắc ban) vào năm Tự Đức 33 (1880).





-      Ý nghĩa: Lạc quyên nghĩa phụ; tức là “Vui vầy quyên nghĩa của người phụ nữ”.
-      Với bức này đọc bình thường từ phải sang trái.
-      Phụ (), Nghĩa ( ), Quyên ( ), Lạc ( ) = Lạc quyên nghĩa phụ.

 Bức 3:


-      Ý nghĩa: Khai tất tiên; tức là “Sự khai mở ắt có người đi đầu”.
-      Bức này cũng đọc từ phải sang trái.
-      Tiên (), Tất ( ), Khai ( ) = Khai tất tiên. Nguyên đủ của câu này là: Hữu khai tất tiên 有 開 必 先 . (Có sự khai mở thì tất phải có người đi đầu).

             C. Bia đá (hai mặt khác chữ nôm) 








                   





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét