Thứ Hai, 28 tháng 7, 2014

Lược sử dòng họ Nguyễn Hữu-Vũ Thư-Thái BÌnh

LƯỢC SỬ DÒNG HỌ

LỜI NÓI ĐẦU

Theo dòng thời gian, dòng họ Nguyễn Hữu đã trường tồn và phát triển không ngừng từ ngày tổ nghiệp Nguyễn Phúc Ninh đến đất Hương tảo[1], Thư trì[2], Thái Bình để dựng nghiệp. Đến nay, hậu duệ đòng họ Nguyễn Hữu đã toả đi khắp nơi không những trên tổ quốc Việt Nam mà còn có mặt và lập nghiệp tại nước ngoài. Cho dù ở đâu, hậu duệ của dòng họ Nguyễn Hữu luôn một lòng hướng về cội nguồn, đoàn kết, đùm bọc, yêu thương nhau và noi theo truyền thống tốt đẹp mà tiền nhân đã dày công xây dựng và bồi đắp.
Do những biến cố lịch sử nên những thư tịch của dòng họ còn giữ lại rất hiếm; nhưng sự trường tồn của ngôi nhà thờ họ, tấm bia đá được dựng vào năm 1917 và bút tích của cụ đồ Nguyễn Hữu Phối viết trên gỗ là những chứng tích lịch sử cho thấy tổ tên của chúng ta là những người rất chú trọng đến công việc xây dựng truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” của dòng họ. Chẳng thế mà những áng văn mở đầu của văn bia đặt tại nhà thờ họ đã viết:
Thường nghe: Nghìn cành vạn lá của cây đều phải bắt đầu từ gốc, vạn mạch nghìn dòng của nước cũng đều phải bắt đầu từ nguồn, còn con người thì vốn bắt đầu từ tổ tiên mà ra. Bởi vậy cho nên mới có việc lập phả và khắc vào bia đá truyền lại cho con cháu hậu thế thấy mà biết được nguồn gốc, đất đai của dòng họ để từ đó hiểu rõ công đức của tổ tông trăm đời chẳng đổi rời, con hiếu cháu hiền muôn thuở như còn thấy ngay ở trước mặt, đó há chẳng phải là vĩ đại lắm thay![3]
Hay như áng văn mở đầu của bản “Lược ghi dòng họ Nguyễn Hữu” của cụ đồ Nguyễn Hữu Phối cũng đã viết như sau:
“Thường nghe: Mọi vạn vật ở đời đều phải có cội nguồn gốc gác. Con người cũng vậy, con người ta khi sinh ra ở đời đều phải xuất phát khởi nguồn từ tổ tiên. Tổ tiên ta luôn tích đức đắp bồi điều nhân để gây dựng cho thế hệ sau càng thêm lớn mạnh. Công đức ấy thực là lớn lao mênh mông đến vô cùng. Nhìn lại thấy, nghìn cành vạn lá cây còn phải có gốc, một dòng nước còn phải vạn mạch nước mà thành, huống hồ là con người. Các thế hệ con con cháu cháu kế tục nối tiếp nhau đến muôn đời không rứt phồn thịnh, ấy há chẳng phải là nhờ đức của tiên tổ ta đó sao. Vậy nên các thế hệ con cháu đâu có thể dám quên mà phải luôn đem lòng báo đức uống nước nhớ nguồn và truyền lại mãi cho con cháu đời sau.”[4]
Nối gót tổ tiên, vào những năm 2000, nhóm hậu duệ tại Phụ dực – Thái bình, đứng đầu là ông Nguyễn Hữu Vân đã dày công thu thập và ghi chép lại gia phả của dòng họ. Kể từ đó dòng họ Nguyễn Hữu đã có thêm một tư liệu quý giá[5], đặc biệt là việc xây dựng cây phả hệ. Kế tục sự nghiệp của các thế hệ trước, một nhóm hậu duệ tại Phương cáp - Hiệp hoà - Vũ thư - Thái bình cũng đã bắt đầu tiến hành những khảo cứu để bổ sung vào những tư liệu của dòng họ. Do bị hạn chế về thời gian nên công việc vẫn chưa được tiến hành một cách hệ thống và kết quả thu được vẫn chưa được nhiều. Mặc dù vậy, chúng tôi mạo muội tạo dựng tài liệu này nhằm làm sáng tỏ thêm những thông tin về dòng họ cũng như đưa ra một số vấn đề để toàn bộ họ tộc cùng nhau góp sức để xây dựng một pho lịch sử của dòng họ.



[1] Nay gọi là Phương Tảo
[2] Nay gọi là Vũ Thư
[3] Trích từ văn bia đặt tại nhà thờ họ
[4] Trích từ bản viết trên gỗ của cụ đồ Nguyễn Hữu Phối.
[5] Tài liệu này đã được cả họ thông qua ngày 25 tháng 2 (âm lịch) năm 2003

XÂY DỰNG KHO TƯ LIỆU CỦA HỌ TỘC

Như trong lời mở đầu đã nhấn mạnh rằng những tư liệu thành văn còn giữ lại rất ít. Những tìm tòi của nhóm khảo cứu đã tiến hành thông qua các cuộc gặp gỡ, trò chuyện với các bậc cao niên còn sống. Đặc biệt, nhóm khảo cứu đã mở rộng hoạt động của mình tới cả các ngành và các chi có số nhân khẩu tập trung lớn như ngành trưởng ở Phương tảo – Vũ Thư – Thái bình, chi họ tại Phụ dực – Thái bình, chi họ tại Hà nội. Tuy nhiên, các tư liệu thành văn (dạng văn bản) thu thập được rất ít. Dưới đây là danh mục những tư liệu đã thu thập được.
1.    Bia đá dựng tại nhà thờ họ Nguyễn Hữu tại Phương cáp – Hiệp hoà – Vũ thư – Thái bình. Đây là một tư liệu vô cùng quý giá và có niên đại cổ nhất trong các tư liệu đã tìm thấy.
Bức bia này đã được tạo dựng vào mùa xuân năm 1917. Đó là dịp dòng họ vừa xây dựng lại nhà thờ họ sau 15 năm không có nhà thờ (do nhà thờ cũ bị bão tàn phá vào năm 1903).
Bia được khắc trên cả hai mặt với văn tự Hán-Nôm. Mặt ngoài (hay nhìn thấy) ghi nội dung, quá trình xây dựng lại nhà thờ cũng như những ranh giới xác định phần đất của nhà thờ. Văn bia không chỉ nhấn mạnh đến sự đóng góp của nội tộc mà đặc biệt còn nhấn mạnh đến những đóng góp của cả ngoại tộc. Mặt trong (thường bị khuất) lược ghi gia phả họ tộc Nguyễn Hữu. Nội dung văn bia đã cho thấy nhiều thông tin bổ ích mà các tư liệu khác chưa làm rõ.
2.    Cuốn “Gia phả họ tộc Nguyễn Hữu” – bản chép tay của ngành trưởng tại Phương tảo – Vũ Thư –Thái bình. Bản chép tay này do ông Trường (con cụ Quang) lưu giữ.
Văn bản chép tay này được họ tộc thuộc ngành trưởng chép lại và hoàn thành vào 26 tháng 7 năm 1950. Văn bản này là bản dịch ra quốc ngữ từ văn bản gốc có niên đại “Đời vua gia long thứ 2, ngày 1 tháng 3”, tức là khoảng những năm 1840. Tuy nhiên, văn bản gốc chưa tìm thấy.
Văn bản chép tay bằng chữ quốc ngữ này chủ yếu ghi chép về cây phả hệ của ngành trưởng tại Phương tảo mà không có ghi chép về các ngành khác.
3.    Cuốn “Gia phả họ tộc Nguyễn Hữu” – bản viết bằng chữ quốc ngữ, do nhóm ông Nguyễn Hữu Vân ngụ tại Phụ dực – Thái bình thực hiện. Cuốn gia phả này đã được cả họ Nguyễn Hữu thuộc ngành tại Phương cáp thông qua ngày 25 tháng 2 (âm lịch) năm 2003. Văn bản này mặc dù chỉ tập trung mô tả về ngành Nguyễn Hữu tại Phương cáp – Hiệp hoà – Vũ thư – Thái bình nhưng là một dấu son ghi nhận công lao to lớn của những người đã để hết tâm huyết cho dòng họ. Điều đặc biệt phải nhấn mạnh rằng văn bản này là văn bản duy nhất có mô tả cây phả hệ của ngành Phương cáp khá đầy đủ mặc dù còn có một số chi “thiếu tinh thần tham gia ghi chép và bổ sung, hiệu chỉnh” – theo lời ông Nguyễn Hữu Vân.
4.    Sắc phong của vua Tự đức.
Đây là bảo vật của dòng họ còn giữ lại được nguyên vẹn. Tấm đại tự này do vua Tự Đức sắc tứ (sắc phong) vào năm 1880.



Bốn chữ trên bức đại tự là: Lạc quyên nghĩa phụ (tức là Vui vầy quyên nghĩa của người phụ nữ).
Để xác minh nguồn gốc của bức đại tự này, chúng tôi đã tham vấn viện Hán nôm Việt nam và được biết không có tàng thư của Việt nam ghi nhận những bức vua sắc tứ trong lịch sử giống như những số quyết định khen tặng như ngày nay.
5.    Ngoài những cứ liệu nêu trên, nhóm khảo cứu đã tiến hành trò chuyện với các bậc cao niên còn sống và đã ghi nhận lại một số thông tin về dòng họ mà vẫn cần xác minh, như nêu ra dưới đây.
-         Dòng họ đã từng có sắc phong của vua và đã lưu giữ khá lâu tại nhà thờ họ. Tuy nhiên vào thời kỳ cải cách ruộng đất số săc phong này đã bị mất không rõ lý do. Có người cho là một trong số thành viên của dòng họ phải đốt dy vật này (không rõ nguyên nhân!).
-         Dòng họ đã có người mở tâm cứu đói cho rất đồng bào vào những năm có nạn đói. Tuy nhiên chưa xác định được đời nào!
Một số cứ liệu lịch sử nêu trên cho thấy dòng họ của chúng ta còn lưu giữ rất ít tư liệu thành văn. Do vậy, các thế hệ của dòng họ phải nỗ lực hơn nữa để sưu tầm, khảo cứu nhằm tạo dựng được pho lịch sử thành văn phong phú của họ tộc. Công việc này không chỉ là trách nhiệm mà còn là vinh dự của thành viên của họ tộc.

MỘT SỐ KHẢO CỨU SƠ BỘ

1.    Nguồn gốc dòng họ
Tất cả những cứ liệu lịch sử đã cho thấy rằng tổ nghiệp được biết đến của chúng ta là Nguyễn Phúc Ninh[1], người đầu tiên đến đất Hương tảo (nay gọi là Phương tảo) huyện Thư trì (nay gọi là Vũ thư), tỉnh Thái bình để dựng nghiệp và sinh ra dòng họ Nguyễn Hữu. Những thông tin về tiên tổ của chúng ta Nguyễn Phúc Ninh chỉ vỏn vẹn vài dòng trong các văn tự; ví dụ trong văn bia dựng tại nhà thờ họ viết rằng:
“Cao tổ Nguyễn quý công, tự Phúc Ninh (giỗ ngày 15 tháng 4). Nguyên trước kia ở xã Lãng Lăng sau rời về xã Hương Tảo. Mộ táng tại địa phận xã Cự Lâm thuộc tổng nhà. Mộ tọa Hỏa tinh, lưng quay về hướng Nam, mặt nhìn về hướng Bắc.
Cao tổ tỷ Trần nhất nương([2]), hiệu Từ Nội (giỗ ngày mồng 5 tháng 5), sinh được 1 người con trai. Phần mộ trưởng chi trông giữ.” – Trích văn bia tại nhà thờ Nguyễn Hữu tại Phương cáp.
Thân thế và sự nghiệp của tiên tổ Nguyễn Phúc Ninh chưa thấy nêu trong tài liệu nào. Tuy nhiên, chúng ta chắc chắn một điều rằng tiên tổ của chúng ta đã vượt qua bao thăng trầm để dựng nghiệp trên mảnh đất mà vào thời đó còn rất hoang vu.
Một điều rất đáng mừng là mộ của tiên tổ vẫn còn được gìn giữ chu đáo mà hằng năm các thế hệ vẫn đến thắp hương, kính cẩn bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc của mình. Tuy nhiên, cho đến hiện nay phần mộ của tiên tổ bà Từ nội vẫn chưa được biết. Đây là một điều rất đáng tiếc, nếu không muốn nói đó là một lỗi lầm to lớn.
Trước đời tiên tổ Nguyễn Phúc Ninh và Từ nội là ai? Đó vẫn là câu hỏi cần phải kiếm tìm.
Thực vậy, trong văn bia đặt tại nhà thờ Nguyễn Hữu – Phương cáp[3] không nói đến nguồn gốc xa xôi hơn đời tiên tổ Nguyễn Phúc Ninh và Từ nội, mà chỉ ghi lại tiên tổ đã chuyển từ Lãng lăng về Hương tảo. Ngoài rahai văn bản ghi chép về dòng họ của ngành trưởng tại Phương tảo và của cụ đồ Phối ở Phụ dực đều khẳng định dòng họ của chúng ta là họ có khởi nguồn từ xã Lãng lăng – Giao thuỷ - Xuân trường[4]. Đồng thời, dòng họ của chúng ta có tiên tổ làm quan dưới triều Mạc[5]. Văn bản quốc ngữ của ngành trưởng tại phương tảo lại nhấn mạnh rằng họ chúng ta trước đây là họ Cự. Tuy nhiên, những khảo cứu cho thấy dưới thời nhà Mạc chỉ có họ và là một họ lớn. Vì vậy việc khẳng định họ gốc của chúng ta là họ Cự có thể là sai sót về dịch văn bản chữ Hán nôm? Đây là vấn đề cần có nhiều khảo cứu thêm.
Trong những lần tiếp xúc với Viện Hán Nôm Việt nam, chúng tôi không tìm thấy văn tự nào của họ Nguyễn Hữu hay họ Cự tại xã Lãng lăng – Giao thuỷ - Xuân trường – Hải hậu – Nam định. Ngoài ra, cũng chưa có ai tìm đến Lãng lăng để tiến hành khảo cứu.

Tóm lại, về nguồn gốc của dòng họ, chúng ta mới chỉ biết đến một cách rõ ràng về tiên tổ đầu tiên đến lập nghiệp tại Thái bình. Tuy nhiên, chúng ta còn cần khảo cứu nhiều hơn về một số vấn đề sau:
-         Nguồn gốc dòng họ tại xã Lãng lăng – Giao thuỷ - Xuân trường – Nam định.
-         Xác định phần mộ tổ Từ nội
-         Xác định gốc là họ Cự hay họ Cơ.
-         Tìm hiểu về thân thế tiền nhân đã từng giữ trọng trách lớn (tể tướng) của triều đình dưới thời nhà Mạc.

2.    Cây phả hệ của dòng họ
Tất cả văn tự còn lưu giữ đều có ghi chép về các thế hệ tiền nhân chỉ chú trọng đến thông tin về tên, huý và ngày giỗ nhưng thông tin về phần mộ lại tương đối sơ sài. Đặc biệt, những tài liệu này đều ở dạng lược ghi nên rất ít thông tin chi tiết và ít chú trọng đến nữ giới. Vì vậy, chúng ta sẽ phải cùng nhau khảo cứu, bổ sung cho đầy đủ. Đây không những là niềm tự hào về dòng tộc mà còn là trách nhiệm đối với các thế hệ sau.
So sánh cây phả hệ được nhóm ông Nguyễn Hữu Vân – Phụ dực xây dựng với văn bia của nhà thờ họ Nguyễn Hữu – Phương cáp và bản dịch sang quốc ngữ về gia phả họ Nguyễn hữu của ngành trưởng – Phương tảo, đã cho chúng ta thấy rằng từ đời tiên tổ Nguyễn Phúc Ninh đến đời các tiên tổ lập nghiệp tại Phương cáp phải có thêm một đời nữa. Đó là đời tiên tổ Nguyễn Phúc Hoan. Nói một cách khác, cụ Nguyễn Phúc Ninh sinh ra cụ Nguyễn Phúc Hoan. Cụ nguyễn Phúc Hoan sinh ra bốn người con trai. Người con trưởng của cụ ở lại Phương tảo và sinh ra ngành trưởng – Phương tảo. Người con thứ hai của cụ dy sang Thanh bản (xã cạnh Phương tảo). Hai người con tiếp theo của cụ dy về Phương cáp để sinh ra ngành Nguyễn Hữu - Phương cáp.
Trong những tư liệu còn giữ lại chỉ thấy nêu ra có một ngành Nguyễn Hữu ở Thanh bản. Ngành trưởng – Phương tảo đã có người tìm đến Thanh bản và được biết có dòng Nguyễn Hữu rất lớn ở Thanh bản. Tuy nhiên, trưởng tộc ở đó cương quyết khẳng định không phải thuộc gốc tại Phương tảo.
Văn bản dòng họ Nguyễn Hữu của ngành trưởng tại Phương tảo ghi chép khá đầy đủ về cây phả hệ từ đời sau đời cụ Nguyễn Phúc Hoan về sau.
Văn bản dòng họ Nguyễn Hữu ngành Phương cáp đã xây dựng được cây phả hệ khá chi tiết từ cụ khởi thuỷ dựng nghiệp ở Phương cáp. Tuy nhiên, chỉ có cây phả hệ của chi Nguyễn Hữu – Phụ dực được mô tả đầy đủ nhất. Một số chi trong cây gia phả vẫn còn để ngỏ và cần có nhiều công sức để phục dựng.

Tóm lại, việc mô tả cây phả hệ của dòng họ mới chỉ dừng lại ở một số thông tin cơ bản như tên, tự, ngày giỗ, phần mộ (thường ghi sơ sài). Những thông tin về thân thế, sự nghiệp, công trạng và đặc biệt là nữ giới không được chú trọng. Những điều này cho thấy các thế hệ đương thời cần phải cùng nhau chung tay, góp sức để bổ sung vào pho sử của dòng họ.



[1] Nhiều người đọc và viết là Nguyễn Phúc Linh là sai.
[2] Trần nhất nương: Người con gái cả của họ Trần.

[4] Thuộc địa phận tỉnh Nam định.
[5] Thời nhà Mạc từ 1527 đến 1592.

1.    Chăm lo phần mộ của tổ tiên
Họ Nguyễn Hữu của chúng ta luôn duy trì được truyền thống gìn giữ mộ phần của tiên tổ. Thông thường mỗi chi, nhánh đề rất chú trọng đến phần mộ đời thứ 4 trở lại. Tuy nhiên, những phần mộ các đời trước lại ít được quan tâm đúng mức với nhiều lý do khác nhau. Một số thành viên của dòng họ đã tự ý dy dời hoặc xâm hại đến phần mộ chung mà tiên tổ đã an táng. Chúng ta nên tránh những việc làm tương tự. Những việc liên quan đến mộ phần tiên tổ phải được bàn bạc trong họ.
Vào những năm gần đây, chúng tôi, những người thuộc ngành Nguyễn Hữu - Phương cáp đã có nhiều hoạt động để có thể xây dựng được bản đồ mộ phần của dòng họ để rồi cùng nhau góp sức duy tu, bảo dưỡng và chăm sóc. Một trong những hoạt động đó là kết nối với ngành trưởng để biết được thông tin về mộ phần của tổ tiên. Trước đây, do có sự bất hoà giữa hai ngành (ngành trưởng Nguyễn hữu - Phương cáp và ngành Nguyễn Hữu – Phương tảo) trong việc dy dời mộ cụ tổ từ Phương cáp sang Phương tảo. Nay, mộ tổ bị dy dời đã được biết chính xác vị trí.
Gần đây, khi dịch văn bia đặt tại nhà thờ, chúng ta mới biết thêm thong tin: có rất nhiều phần mộ được đặt tại xứ Cây Chanh – Phương cáp. Dòng họ chúng ta phải cùng nhau chung sức tìm kiếm vào gìn giữ.
Tóm lại, dòng họ chúng ta sẽ phải cùng nhau chăm lo đến mộ phần của tiên tổ. Những thông tin thu được từ tư liệu đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực không ngừng để chăm lo đến mộ phần của tiên tổ, đúng với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”.

 Chăm lo nhà thờ họ

Nhà thờ họ là biểu tượng của dòng họ, là sức sống và nguồn nước nuôi dưỡng các thế hệ. Tổ tiên của chúng ta đã ý thức và luôn chăm lo đến nhà thờ họ. Chính vì vậy ngày nay chúng ta mới có được dy sản vô cùng quý giá.
Cho đến thời điểm hiện nay, từ những tài liệu thu thập được cũng như những lời kể lại của những bậc cao niên còn sống đều cho thấy rằng không thể biết Nhà thờ họ Nguyễn Hữu – Phương cáp được bắt đầu tạo dựng từ năm nào. Chỉ biết rằng vào năm 1903 bão đã làm đổ nhà thờ, sau đó dòng họ đã cùng nhau khởi công xây dựng lại vào mùa thu 1916 và hoàn thành vào năm 1917. Văn bia viết rằng:
“Từ đường họ nhà ta vào năm Quý Mão[1] do bị trận gió bão quật đổ, trải qua 15 năm mà vẫn chưa tạo dựng lại được nên các tiết giỗ chạp đều sắp bày tại tư gia con cháu. Trước hoàn cảnh ấy, mọi người ai ấy đều động lòng bèn cùng nhau hội họp và thống nhất dựng lại trên nền đất cũ. Công việc được tiến hành khởi công từ mùa thu năm ngoái cho đến mùa xuân năm nay thì hoàn thành. Việc xong, tính tổng cộng chi tiêu các khoản cho công việc trên hết 500 đồng, trong đó tiền của trong họ là 240 đồng, còn thiếu 260 đồng. Số tiền thiếu này sẽ tính bổ đều cho giáp Đệ Nhất và các con cháu hai bên nội ngoại tiến cúng để bù cho đủ phần còn thiếu ấy.” - Ngày lành tháng 2 năm Mậu Ngọ niên hiệu Khải Định 3 (1917) lập văn bia.
Như vậy, Nhà thờ họ đã có từ trước năm Quý Mão (1903).
Cho đến ngày nay, Nhà thờ họ Nguyễn Hữu đã tồn tại gần một thế kỷ, kể từ ngày xây dựng lại (1916).
Trải qua năm tháng, Nhà thờ họ đã được sửa chữa và tôn tạo nhiều lần dưới sự quan tâm, đóng góp của nhiều thế hệ.
Vào năm 1999, dòng họ đã góp công, góp của để tôn tạo Nhà thờ họ trong phạm vi giữ nguyên kết cấu cũ. Việc tu sửa chỉ nhằm thay thế những chi tiết bị hỏng (chủ yếu là các chi tiết bằng gỗ), tường bao, hoa văn trang trí. Chủ trì công việc tu sửa được giao cho ông Nguyễn Hữu Thọ[2]. Đặc biệt, trong ba bức hoành phi (vẫn còn treo trong Nhà thờ họ) đã có một bức được phục chế lại hoàn toàn.
Vào ngày giỗ họ (25 tháng 2 âm lịch) của năm 2011, dòng họ đã họp và thống nhất phải sửa chữa và tôn tạo Nhà thờ.
Vào mùa thu năm 2012, Nhà thờ họ đã chính thức được khởi công tôn tạo (2 tháng 10 âm lịch) và hoàn thành vào ngày 11 tháng 12 âm lịch (ngày rước vong linh tổ tiên về nhà mới), trước tết âm lịch. Ngày chính thức tuyên bố khánh thành là ngày giỗ họ 25 tháng 2 âm lịch, năm 2013. Lần tôn tạo này đã có nhiều thay đổi lớn được tóm tắt như sau:
-      Giữ nguyên hướng cũ (chính Bắc-Nam, mặt nhìn hướng Bắc, toạ Nam).
-      Mở rộng lòng nhà bốn bề (từ kích thước 7,8m x 6,1m thành 8,66m x 8,59m).
-      Tiến về phía trước 1m, dịch sang phải (theo hường nhìn vào nhà thờ) 1,5m.
-      Nền nhà được nâng cao thành 1m so với nền sân mới. Chiều cao của nhà được nâng cao (từ 4,1m thành 4,65m, tính từ nền nhà). Lòng nhà cũng được mở rộng (kích thước gian giữa 2,42 x 2,05m và hai gian bên 2,4m x 2,05m thành kích thước tương ứng 2,82 x 3,61m và 2,4m x 3,61m).
-      Toàn bộ tường bao, nền nhà, mái nhà và kết cấu mái nhà được dựng mới hoàn toàn; mua bổ sung và thay thế 4 cột hiên ngoài, 1 cột hiên trong.
-      Toàn bộ chi tiết bằng gỗ phải thay thế, làm mới đều bằng gỗ lim[3] (kể cả phần mái). Làm mới một bộ cửa của gian chính giữa.
-      Toàn bộ hàng rào và sân được tôn tạo và xây lại.
-      Tổng số chi phí đến trước ngày khánh thành (25-2-2013 âm lịch) là: 662.147.000 đồng.
-      Tổng số đóng góp theo xuất đinh của toàn dòng họ đến trước ngày khánh thành: 123.000.000 đồng (tướng ứng với 122 xuất đinh và 01 xuất nữ tộc).
-      Tổng số đóng góp theo hảo tâm đến trước ngày khánh thành: 528.600.000 đồng.
-      Tổng số còn thiếu tính đến trước ngày khánh thành: 10.547.000 đồng.
Ghi chú: Xin xem Phụ lục - Chi tiết đóng góp xây dựng Nhà thờ họ.

Một số kỷ vật của dòng họ

Nhà thờ họ còn giữ được một số kỷ vật thiêng liêng.

             A.       Bát hương, ngai thờ.
Tại gian chính giữa còn lưu giữ được bát hương và ngai thờ cổ mà vẫn niên đại chưa xác định được. Tuy nhiên, có thể giả định rằng đây là kỷ vật có từ khi xây dựng lại gần nhất (năm 1917).

B.        Bộ 3 bức hoành phi.

Bức 1:


-      Ý nghĩa: Xương quyết hậu; tức là “Con cháu thịnh sang”.
-      Với bức hoành này phải đọc từ giữa, sau đó sang chữ bên phải và bên trái.
-      Hậu ( ), Xương ( ), quyết ( ) = Xương quyết hậu. Nguyên đủ của câu này là:
Khắc xương quyết hậu 克 昌 厥 後

Bức 2: Bức này được sắc tứ (sắc ban) vào năm Tự Đức 33 (1880).





-      Ý nghĩa: Lạc quyên nghĩa phụ; tức là “Vui vầy quyên nghĩa của người phụ nữ”.
-      Với bức này đọc bình thường từ phải sang trái.
-      Phụ (), Nghĩa ( ), Quyên ( ), Lạc ( ) = Lạc quyên nghĩa phụ.

 Bức 3:


-      Ý nghĩa: Khai tất tiên; tức là “Sự khai mở ắt có người đi đầu”.
-      Bức này cũng đọc từ phải sang trái.
-      Tiên (), Tất ( ), Khai ( ) = Khai tất tiên. Nguyên đủ của câu này là: Hữu khai tất tiên 有 開 必 先 . (Có sự khai mở thì tất phải có người đi đầu).

             C. Bia đá (hai mặt khác chữ nôm) 








                   





Văn bia (viết trên gỗ) lưu ở nhà thờ chi tại Phụ dực, Thái bình

Văn bia do cụ đồ Phối, viết trên gỗ, tại nhà thờ chi họ thuộc Phụ Dực, Thái Bình

Bản dịch của viện Hán nôm

GIA PHẢ HỌ NGUYỄN
Ngày 24 tháng 11 năm Bảo Đại 14 (1939) họ Nguyễn Đức ở xã An Ninh, tổng Lương Xá, huyện Phụ Dực, tỉnh Thái Bình biên chép lại các ngày giỗ, tên húy, và chức tước của các bậc gia tiên trong phả hệ như sau:
Thường nghe: Mọi vạn vật ở đời đều phải có cội nguồn gốc gác. Con người cũng vậy, con người ta khi sinh ra ở đời đều phải xuất phát khởi nguồn từ tổ tiên. Tổ tiên ta luôn tích đức đắp bồi điều nhân để gây dựng cho thế hệ sau càng thêm lớn mạnh. Công đức ấy thực là lớn lao mênh mông đến vô cùng. Nhìn lại thấy, nghìn cành vạn lá cây còn phải có gốc, một dòng nước còn phải vạn mạch nước mà thành, huống hồ là con người. Các thế hệ con con cháu cháu kế tục nối tiếp nhau đến muôn đời không rứt phồn thịnh, ấy há chẳng phải là nhờ đức của tiên tổ ta đó sao. Vậy nên các thế hệ con cháu đâu có thể dám quên mà phải luôn đem lòng báo đức uống nước nhớ nguồn và truyền lại mãi cho con cháu đời sau.

Tiên tổ nhà ta là họ Nguyễn Hữu, nguyên quán tại xã Lãng Lăng, huyện Giao Thủy, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Xưa kia, các vị tiền liệt từng một đời làm Thượng thư, một đời làm Quận công ở thời Lê trung hưng và thời Mạc nên nhập cư vào nội địa (đất trong). Sau phân làm hai chi, một chi ở xã Phương Tảo, một chi ở xã Phương Cáp rồi con cháu hậu duệ kế tục nối tiếp nhau cho đến ngày nay. Nay ta lại rời cư về quê mẹ (tức xã An Ninh, huyện Phụ Dực) và lấy tên là Nguyễn Hữu noi theo chí hướng của tiền nhân. Vậy nên xin sao chép lược thuật lại các tên húy, ngày giỗ của các vị cao tằng tổ khảo của 4 đời trước đã được ghi rất rõ ràng trong gia phả lưu tại Từ đường để lại mãi mãi cho các thế hệ con cháu đời sau.
Dưới đây là các tên húy, ngày giỗ của các vị:

- Cao cao tổ khảo, Nguyễn quý công, tự Hữu Linh phủ quân (giỗ ngày 25 tháng 2).
+ Cao cao tổ tỷ, hiệu Từ Lộc (giỗ ngày 14 tháng 7).

- Cao tằng tổ khảo, Nguyễn quý công, tự Hữu Tùng phủ quân (giỗ ngày 27 tháng giêng). Nguyên giữ chức Đô lại ở tỉnh Nam Định.
+ Cao tằng tổ tỷ, Phạm Thị Năm, hiệu Từ Thuận nhụ nhân, là chính thất (vợ cả) của họ Nguyễn (tức Nguyễn quý công, tự Hữu Tùng).
+ Cao tằng tổ tỷ, Nguyễn Thị Liễu, hiệu Diệu Chính nhụ nhân (giỗ ngày mùng 7 tháng 12), là trắc thất (bà thứ) của họ Nguyễn (tức Nguyễn quý công, tự Hữu Tùng).

- Tằng tổ khảo, Nguyễn quý công, tự Hữu Lượng, hiệu Cẩn Hậu phủ quân (giỗ ngày 15 tháng 9). Tằng tổ khảo nguyên giữ chức Thông lại ở huyện nhà.
+ Tằng tổ tỷ, Bùi Thị Giá, hiệu Diệu Chân nhụ nhân (giỗ ngày mùng 6 tháng 5), là chính thất (bà cả) của họ Nguyễn (tức Nguyễn quý công, tự Hữu Lượng).
+ Tằng tổ tỷ, Đào Thị Nhã, hiệu Diệu Nho nhụ nhân (giỗ ngày 27 tháng 6), là trắc thất (bà hai) của họ Nguyễn (tức Nguyễn quý công, tự Hữu Lượng).
+ Tằng tổ tỷ, Trần Thị Yêu, hiệu Diệu Nghiêm nhụ nhân (giỗ ngày 11 tháng 2), là kế thất (bà ba) của họ Nguyễn (tức Nguyễn quý công, tự Hữu Lượng).

- Tổ cô, Nguyễn Thị Bằng, hiệu Thanh Ninh (giỗ ngày 12 tháng 5).
- Đường bá, Nguyễn Hữu Từ; đường bá, Nguyễn Hữu Giang; Nguyễn Hữu Đỏ([1]); Nguyễn Thị Đỏ.

- Hiển khảo, Nguyễn quý công, tự Pháp Thuận, húy Phối phủ quân. Hiển khảo nguyên là Khóa sinh, giữ chức Xã nhiêu, kiêm Hội Tư văn của xã nhà. Hiển khảo, mất vào giờ Hợi (ngày 22 tháng 4) năm Giáp Thân, hưởng thọ 62 tuổi.
+ Hiển tỷ, Phạm Thị Tỳ, hiệu Cần Kiệm (giỗ ngày 25 tháng 8), là chính thất (bà cả) của họ Nguyễn (tức Nguyễn quý công, tự Pháp Thuận).
+ Hiển tỷ, Lương Thị Kiệm, hiệu Cần Hậu (giỗ ngày 24 tháng 5), là kế thất (bà kế) của họ Nguyễn (tức Nguyễn quý công, tự Pháp Thuận).

- Hiển khảo, húy Nguyễn Đức Hạp, tự Thảo Hiền (giỗ ngày 21 tháng 11), hưởng thọ 57 tuổi.
+ Hiển tỷ, Phạm Thị Miên, hiệu Diệu Liên nhụ nhân, là chính thất của hiển khảo Nguyễn Đức Hạp, tự Thảo Hiền. Hiển tỷ sinh năm Giáp Dần, mất ngày 24 tháng 6 năm Giáp Ngọ, hưởng thọ 57 tuổi.

- Nguyễn Đức Tiếp (giỗ ngày 27 tháng 5); Nguyễn Khiết (giỗ ngày mùng 2 tháng 3); Nguyễn Thị Châu (giỗ ngày 17 tháng 9).



[1] Đỏ: Chết non.

Bản dịch văn bia tại nhà thờ họ Nguyễn Hữu






Bản dịch
Văn bia
họ Nguyễn Hữu
xã Phương Cáp
tổng Cự Lâm
huyện Thư Trì






Hà Nội 2013


MẶT SỐ 1:
NGUYỄN TỘC TỪ BI KÝ

PHIÊN ÂM:
Thư Trì huyện, Cự Lâm tổng, Phương Cáp xã Nguyễn Hữu tộc đồng tộc vi lập bi ký.
Cái văn: Mộc chi thiên kha vạn diệp thủy ư căn, thủy chi vạn mạch thiên lưu bản ư nguyên, nhân bản hồ tổ diệc do thị dã. Cố vi chi phổ lặc vu thạch sử hậu thế tử tôn tri sở nguyên ủy tường kỳ căn điền tổ công tông đức bách thế bất thiên, tử hiếu tôn hiền vạn đại như kiến khải bất vĩ tai! Ngã tộc Từ đường ư Quý Mão niên sở bị cụ phong đảo hoại kinh thập ngũ niên phất tạo kỵ lạp các tiết nhất giai quyền thiết tư gia vi tử tôn giả quá kỳ cựu chỉ năng bất động tâm nhưng ư khứ niên thu hội đồng khởi tạo chí kim niên trọng xuân công thuân hợp cộng các khoản chi tiêu phí chí ngũ bách hoa ngân, nội bản tộc công tiền nhị bách tứ thập nguyên, tồn khiếm nhị bách lục thập nguyên gian liệt hạng quân bổ tịnh bản xã đệ nhất giáp dữ tử tôn nội ngoại tiến cúng sung đắc giá khiếm thả đương tu tạo chi thời nhu phí phả đa công trình hạo đại phú giả, xuất tài bần giả, xuất lực kỳ ứng, dịch tu lý thậm chúc nan lao xuất lực xuất tài giả bất tri cơ bồi gian nhi tộc nhân thượng hữu bất thụ bổ liễm ứng dịch như thử tuệ đoan ngôn chi bất tận thảng hữu công hữu quá giả bất hữu chí chi vô dĩ ngôn khuyến lai.
Tư tái nguyện Từ đường vĩnh viễn dữ thạch trường tồn, hậu nhật tử tôn hoặc hữu hà nhân bất niệm tổ công tông đức lỗ tự xâm phạm điền thổ tế khí, thượng đắc tội ư thiên địa, hạ đắc tội ư tổ tiên. Kỳ hà nhân sung liễm can tịnh tiến cúng can dữ phế khiếm can quân liệt vu tả dĩ thọ kỳ truyền. Tư lập bi ký.
Kế:
- Bản xã đệ nhất giáp tiến cúng thanh tiền tứ thập quán.
- Nội ngoại tử tôn tiến cúng hoa ngân nhất bách ngũ thập nguyên.
+ Từ đường nhất tòa tam gian.
+ Thổ thập nhị xích (Đông cận Nguyễn Cừ thổ; Tây cận Nguyễn Long thổ).
+ Thổ tại Quan Nam xứ bát xích (Đông cận Đỗ Chung thổ; Tây cận Phan Nhụ thổ).
+ Trì nhất khẩu (Đông cận Nguyễn Long thổ; Tây cận tiểu lộ).
+ Tư điền tại Quan Nam xứ thập tứ xích (Đông cận Nguyễn Khu điền; Tây cận Phan Thậm thổ).
+ Tư điền tại Càn Trúc xứ nhị cao ngũ xích (Đông cận tiểu lộ; Tây cận Nguyễn Cừ điền).
- Phạm Đệ ký kỵ cửu nguyệt sơ tứ nhật tịnh Nguyên đán.
- Đỗ Trọng Phố ký kỵ cửu nguyệt sơ tứ nhật.
- Nguyễn Sinh ký kỵ thập nguyệt tam thập nhật.
Tộc nội nghị định các kỵ nhật thuận hứa nội ngoại ký kỵ thu tiền trí vi xuân thu nhị tế.
- Nguyễn Ngoạn ký kỵ nhị nguyệt nhị thập ngũ nhật.

Tộc nội nhân Nguyễn Phối, Nguyễn Luận phụ tử vô hữu bổ tiền công tiền nhất giai tịnh khiếm tả thành tứ bản liên ký giao các chi chấp chiếu vi bằng.
Khải Định tam niên Mậu Ngọ nhị nguyệt cát nhật lập bi ký.



MẶT SỐ 2:
BẢN TỘC GIA PHỔ TỰ KÝ
Kế:
- Cao tổ Nguyễn quý công, tự Phúc Ninh (tứ nguyệt thập ngũ nhật kỵ). Nguyên tiền tại Lãng Lăng xã, hậu hồi Hương Tảo xã. Mộ táng tại bản tổng Cự Lâm xã địa phận Hỏa tinh căn tọa Bính hướng Tý.
+ Cao tổ tỷ Trần nhất nương, hiệu Từ Nội (ngũ nguyệt sơ ngũ nhật kỵ), sinh đắc nhất nam. Phần mộ trưởng chi sở thủ.

- Tằng tổ Nguyễn quý công, tự Phúc Hoan (thập nhị nguyệt nhị thập nhật kỵ). Nguyên công sinh vu Hương Tảo thê thiếp sinh đắc tứ nam, trưởng tử nguyên cư Hương Tảo, nhất chi di cư Thanh Bản, tam chi tứ chi di cư Phương Cáp xã. Cô di cư hậu tốt táng tại bản xã Cầu giáp địa phận Tam Bảo xứ, huyệt tại Thổ tâm tọa Tốn hướng Càn.
+ Tằng tổ tỷ Trần nhị nương, hiệu Từ Lộc (bát nguyệt nhị thập ngũ nhật kỵ). Mộ táng tại bản tổng Phan Cầu trang Đống Liệt xứ, huyệt tại kim quy tọa Đinh hướng Quý. Sinh đắc tứ nam.

- Hiển tổ Nguyễn quý công, tự Hữu Tài, hiệu Phúc Hòa (thập nguyệt sơ tứ nhật kỵ). Mộ táng tại bản xã Càn Giá xứ Thủy tinh tọa Cấn hướng Khôn. Nguyên công sinh vu Hương Tảo cập trưởng vi cô bần nãi ký cư Phương Cáp xã nhân Bùi Công Hiếu cần mẫn sinh nghiệp. Bùi công kiến vi nhân thuần hòa nhận vi dĩ tử, cố thử nhập tịch cư yên. Công dữ tổ tỷ cần kiệm sinh nghiệp nãi năng trí phú đãn tử tức thoát thành tái thú thiếp sinh nhị nam nhất nữ.
+ Hiển tổ tỷ Đào nhất nương, hiệu Từ Tâm, Hữu Lộc xã nhân (nhị nguyệt nhị thập ngũ nhật kỵ). Mộ táng bản xã Gia giáp địa phận Cây Chanh xứ, huyệt tại Kim tinh tọa Bính hướng Nhâm. Nguyên sơ bản xã tu tác tân đình Gia giáp vô hữu công tiền, bà ứng xuất dữ y giáp cổ tiền nhất bách quán hòa điền ngũ cao thập xích, trì nhất khẩu. Đồng giáp thuận bảo bà vi Hậu thần, phàm kỵ lạp các tiết tế tự thế thế hương hỏa phụng sự như sinh, hậu chi tử tôn tưởng bà chi đức tại ư dưỡng thành bà chi công tại ư tế cấp chí vu kim quyến gia kỳ huệ. Phần mộ kỵ lạp yếu thường cẩn thủ. Nhược [] lược tội thông vu thiên giới chi thận chi.
+ Hiển tổ tỷ Nguyễn nhị nương, hiệu Từ Tín (tứ nguyệt thập tứ nhật kỵ). Mộ táng tại Gia giáp địa phận Cây Chanh xứ, huyệt tại Thổ tâm . Sinh nhị nam nhất nữ. Nguyên quán tại Thần Khê huyện, Quán Xá xã nhân tòng thân phụ khai canh bản xã điền, thủy giá dữ hiển tổ vi thiếp.

- Hiển khảo Nguyễn quý công, tự Hữu Tiến. Bình sinh vi Hương trưởng học Đạo pháp môn vi thế danh sư, nhân nhi thụy viết tự Huệ Danh (thập nguyệt tam thập nhật kỵ). Mộ táng tại Gia giáp địa phận Cây Chanh xứ, tọa Tân hướng Ất, huyệt tại Kim nhũ.
+ Hiển tổ tỷ Đỗ Thị Đát, bản xã nhân công Chính Lộ chi hàng nhị nữ, thụy viết Diệu Uyên (cửu nguyệt sơ tứ nhật kỵ). Mộ táng tại Cây Chanh xứ, Kim nhũ, tọa Ất hướng Tân. Sinh tứ nam tứ nữ nhất nghĩa nữ.
Nguyễn tộc cẩn chí.


DỊCH NGHĨA:
MẶT SỐ 1:
VĂN BIA NHÀ THỜ HỌ NGUYỄN
Họ Nguyễn Hữu cùng toàn thể mọi người trong họ ở xã Phương Cáp, tổng Cự Lâm, huyện Thư Trì lập văn bia.
Thường nghe: Nghìn cành vạn lá của cây đều phải bắt đầu từ gốc, vạn mạch nghìn dòng của nước cũng đều phải bắt đầu từ nguồn, còn con người thì vốn bắt đầu từ tổ tiên mà ra. Bởi vậy cho nên mới có việc lập phả và khắc vào bia đá truyền lại cho con cháu hậu thế thấy mà biết được nguồn gốc, đất đai của dòng họ để từ đó hiểu rõ công đức của tổ tông trăm đời chẳng đổi rời, con hiếu cháu hiền muôn thuở như còn thấy ngay ở trước mặt, đó há chẳng phải là vĩ đại lắm thay!
Từ đường họ nhà ta vào năm Quý Mão do bị trận gió bão quật đổ, trải qua 15 năm mà vẫn chưa tạo dựng lại được nên các tiết giỗ chạp đều sắp bày tại tư gia con cháu. Trước hoàn cảnh ấy, mọi người ai ấy đều động lòng bèn cùng nhau hội họp và thống nhất dựng lại trên nền đất cũ. Công việc được tiến hành khởi công từ mùa thu năm ngoái cho đến mùa xuân năm nay thì hoàn thành. Việc xong, tính tổng cộng chi tiêu các khoản cho công việc trên hết 500 đồng, trong đó tiền của trong họ là 240 đồng, còn thiếu 260 đồng. Số tiền thiếu này sẽ tính bổ đều cho giáp Đệ Nhất và các con cháu hai bên nội ngoại tiến cúng để bù cho đủ phần còn thiếu ấy. Thiết nghĩ, khi đương tu tạo chi chí tốn kém nhiều, công trình lại lớn thành ra hao tốn tiền của, mất nhiều nhân lực. Trong khi đó, ở trong họ lại có người không chịu đóng góp thành thử sảy ra chuyện thiếu tiền là lẽ đương nhiên. Vậy nên, lời nói khó bề mà diễn tả hết được, chỉ biết người có công thì tất hưởng phúc dài, người vô tâm thì cho dù có thế nào đi chăng nữa vẫn chẳng thể hưởng phúc ấm. Nay xin nguyện cho ngôi Từ đường mãi mãi cùng với đá xanh trường tồn. Các con cháu sau này nếu có người nào không nhớ tới công của tổ, đức của tông mà đem lòng chiếm cứ hoặc tự ý xâm phạm đến đất đai ruộng vườn và đồ tế khí thì trên đắc tội với trời đất, dưới đắc tội với tổ tiên. Còn người nào quyên góp bao nhiêu, tiến cúng bao nhiêu hoặc bỏ thiếu không chịu đóng góp thì xin liệt kê dưới đây để truyền lại mãi mãi. Nay lập bia ghi.
Kê:
- Giáp Đệ Nhất ở trong xã tiến cúng 40 quan tiền xanh.
- Các con cháu hai bên nội ngoại tiến cúng 150 đồng.
+ Một tòa Từ đường gồm 3 gian.
+ Đất 12 thước (phía Đông cận với đất của Nguyễn Cừ; phía Tây cận với đất của Nguyễn Long).
+ Đất tại xứ Quan Nam gồm 8 thước (phía Đông cận với đất của Đỗ Chung; phía Tây cận với đất của Phan Nhụ).
+ Ao 1 cái (phía Đông cận với đất của Nguyễn Long; phía Tây cận với con đường nhỏ).
+ Ruộng tư tại xứ Quan Nam gồm 14 thước (phía Đông cận ruộng của Nguyễn Khu; phía Tây cận với đất của Phan Thậm).
+ Ruộng tư tại xứ Càn Trúc gồm 2 sào 5 thước (phía Đông cận với con đường nhỏ; phía Tây cận với ruộng của Nguyễn Cừ).
- Phạm Đệ giỗ ngày mồng 4 tháng 9 và tết Nguyên đán.
- Đỗ Trọng Phố giỗ ngày mồng 4 tháng 9.
- Nguyễn Sinh giỗ ngày 30 tháng 10.
Nghị định của nội tộc hễ đến các ngày giỗ của hai bên nội ngoại hoặc dịp tế lễ hai mùa xuân thu thì thống nhất thu tiền để chi dùng.
- Nguyễn Ngoạn giỗ ngày 25 tháng 2.
Người nội tộc là Nguyễn Phối và Nguyễn Luận, cả hai cha con cùng để thếu không đóng tiền công và tiền đinh xuất. Vậy nên lập biên bản làm 4 bản liền nhau cùng ký kết rồi giao cho các chi chấp chiếu để làm bằng.

Ngày lành tháng 2 năm Mậu Ngọ niên hiệu Khải Định 3 (1917) lập văn bia.

MẶT SỐ 2:
GIA PHẢ GHI THỨ TỰ CỦA BẢN TỘC
Kê:
- Cao tổ Nguyễn quý công, tự Phúc Ninh (giỗ ngày 15 tháng 4). Nguyên trước kia ở xã Lãng Lăng sau rời về xã Hương Tảo. Mộ táng tại địa phận xã Cự Lâm thuộc tổng nhà. Mộ tọa Hỏa tinh, lưng quay về hướng Nam, mặt nhìn về hướng Bắc.
+ Cao tổ tỷ Trần nhất nương([1]), hiệu Từ Nội (giỗ ngày mồng 5 tháng 5), sinh được 1 người con trai. Phần mộ trưởng chi trông giữ.

- Tằng tổ Nguyễn quý công, tự Phúc Hoan (giỗ ngày 20 tháng 12). Nguyên xưa kia cụ sinh ở Hương Tảo, lấy vợ rồi sinh hạ được 4 người con trai. Con trưởng ở lại Hương Tảo, chi thứ hai di cư đến Thanh Bản, chi thứ ba và chi thứ tư thì di cư đến xã Phương Cáp. Bà cô cũng di cư, sau mất thì táng tại xứ Tam Bảo thuộc địa phận giáp Cầu ở bản xã. Huyệt mộ tọa Thổ tâm, lưng quay về hướng Đông Nam, mặt nhìn về hướng Tây Bắc.
+ Tằng tổ tỷ Trần nhị nương([2]), hiệu Từ Lộc (giỗ ngày 25 tháng 8). Mộ táng tại xứ Đống Liệt, trang Phan Cầu thuộc bản tổng. Sinh hạ được 4 người con trai.

- Hiển tổ Nguyễn quý công, tự Hữu Tài, hiệu Phúc Hòa (giỗ ngày mồng 4 tháng 10). Mộ táng tại xứ Càn Giá thuộc bản xã, mộ tọa Thủy tinh, lưng quay về hướng Đông Bắc, mặt nhìn về hướng Tây Nam. Nguyên xưa kia, cụ sinh ra ở Hương Tảo, khi trưởng thành mồ côi nghèo khó nên đành phải đến ở cho Bùi Công Hiếu ở xã Phương Cáp để sinh nghiệp. Bùi công thấy ông là người hiều hậu hiếu thuận bèn nhận làm con, do đó mà ông nhập tịch ở đấy. Ông và tổ tỷ là người cần kiệm làm ăn và dần trở thành giàu có nhưng lại không có con, nên sau ông lại lấy bà thiếp rồi sinh hạ được 2 người con trai và 1 người con gái.
+ Hiển tổ tỷ Đào nhất nương, hiệu Từ Tâm là người ở xã Hữu Lộc (giỗ ngày 25 tháng 2). Mộ táng tại xứ Cây Chanh thuộc địa phận giáp Gia của bản xã, huyệt mộ tọa Kim tinh, lưng quay về hướng Nam ghé Đông Nam, mặt nhìn về hướng Bắc ghé Tây Bắc. Nguyên xưa, bản xã tu sửa cho mới lại ngôi đình giáp Gia và thiếu tiền, bà đã ứng ra cho giáp ấy 100 quan tiền cổ và 5 sào 10 thước ruộng cộng thêm 1 cái ao. Bởi vậy, toàn dân trong giáp thuận tình bầu bà làm Hậu thần. Phàm vào các tiết giỗ chạp thì dân thờ tự hương hỏa phụng sự bà như lúc còn sống. Các con cháu sau này tưởng nhớ đến công đức dưỡng thành của bà bèn cùng nhau thờ tự khói hương, và cho đến nay gia quyến vẫn rất nhân ái. Phần mộ và giỗ chạp của bà hiện vẫn được cẩn thận trông coi. Nếu người nào coi thường mà hành sự đại khái sơ lược thì quả là rất có tội với trời.
+ Hiển tổ tỷ Nguyễn nhị nương, hiệu Từ Tín (giỗ ngày 14 tháng 4). Mộ táng tại xứ Cây Chanh thuộc địa phận giáp Gia, huyệt mộ tọa Thổ tâm. Bà nguyên quán ở xã Quán Xá, huyện Thần Khê theo thân phụ đến bản xã khai canh rồi lấy hiển tổ làm thiếp.

- Hiển khảo Nguyễn quý công, tự Hữu Tính([3]) là Nho sinh làm Hương trưởng, sau theo học Đạo pháp rồi trở thành bậc thầy nổi tiếng nên nhân đó mà lấy tên thụy là Huệ Danh. Hiển khảo (giỗ ngày 30 tháng 10), mộ táng tại xứ Cây Chanh thuộc địa phận giáp Gia. Huyệt mộ tọa Kim, lưng quay về hướng Tây ghé Tây Bắc, mặt nhìn về hướng Đông ghé Đông Nam.
+ Hiển tổ tỷ Đỗ Thị Đát, thụy Diệu Uyên là con gái thứ hai của ông Chính Minh ở trong xã. Hiển tổ tỷ (giỗ ngày mồng 4 tháng 9), mộ táng tại xứ Cây Chanh. Huyệt mộ tọa Kim, lưng quay về hướng Đông ghé Đông Nam, mặt nhìn về hướng Tây ghé Tây Bắc.
Sinh hạ được 4 người con trai, 4 người con gái và nuôi 1 người con nuôi.
Họ Nguyễn kính cẩn ghi chép.




[1] Trần nhất nương: Người con gái cả của họ Trần.
[2] Trần nhị nương: Người con gái thứ hai của họ Trần.
[3] Chữ Tính ở đây chúng tôi không dám chắc, vì trong bản gốc chữ vỡ nét và rất mờ.